Cụ ĐOÀN NHẤT LANG

Cụ Đoàn Nhất Lang và Đoàn Nhị Lang (đời thứ 12-1 và 2).

Ngài Đoàn Trang Tùng sinh ra Đoàn Nhất Lang, Đoàn Nhị Lang, Đoàn Tam Lang. Trong tam kiệt nổi bật là Đoàn Tam Lang tên huý là Đoàn Thiện Hưng (Đoàn Phúc Hưng), chức “Tiền Cai hương, Thiện Hộ Chức, cai cơ Thiên Vũ”. Thế kỷ 13, giặc Nguyên Mông xâm lược nước Đại Việt, nhà Trần mộ binh tuyển tướng, cả 3 anh em Đoàn Nhất Lang, Nhị Lang, Tam Lang đều tòng quân được xung vào quân của phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Đoàn Thiện Hưng thi đậu cử biền tạo sĩ, được giữ chức cai cơ đội thuỷ binh Thiên Vũ, tham gia đánh giặc Nguyên Mông năm ất Dậu (1285). Trong cuộc kháng chiến đánh giặc Nguyên lần thứ hai, Ngài Đoàn Thiện Hưng lập nhiều chiến công, được phong thưởng cấp đất lộc điền ở miền Đông bên bờ sông Bạch Đằng. Có một số con cháu của Đoàn Trang Tùng, Đoàn Thiện Hưng chuyển cư đến khai thác đất lộc điền đã sinh ra một số dòng họ Đoàn ở đấy.

Bài tuồng cổ được Đoàn Minh Tuấn sưu tầm miêu tả lại cuộc đấu tranh giữ nước của ông cha ta trong đó có cụ Đoàn Nhất Lang với vai Đoàn Tự Tôn. Đoàn Nhất Lang, Nhị Lang, Tam Lang đều tòng quân được xung vào quân của phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư.

 

HÁT QUAN HỌ  (Bài Thanh Bình Ca) 

Bối cảnh :

Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dà xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt.

Ngột Lương Hợp Thai (theo tên gọi trong Trung văn: 兀良合台; 1200-1271[1]) là tướng chỉ huy khi quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ nhất vào năm 1258. Ngột Lương Hợp Thai được xếp là công thần đứng hàng thứ 3 của nhà Nguyên.

Đại Việt

Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý. Nó ra đời năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Nó tồn tại không liên tục, đến năm 1804.

Năm 1254, Ngột Lương Hợp Thai tiến chiếm thành công nước Đại Lý - quốc gia của người Thoán Bặc (người DiVân Nam) - và bắt sống vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí. Từ năm 1252, Ngột Lương Hợp Thai và Hốt Tất Liệt đánh Đại Lý, chiếm được kinh đô từ năm 1253, sau đó Hốt Tất Liệt nhận việc mới và Ngột Lương Hợp Thai trở thành tổng chỉ huy.

Quân đội của Ngột Lương Hợp Thai gồm kỵ binh Mông Cổ và quân sĩ người Di. Tổng cộng là cỡ 2,5 vạn. Tiên phong là tướng Triệt Triệt Đô. Ngoài A Truât, con trai Ngột Lương Hợp Thai, còn có phò mã của Mông Cổ là Hoài Đô. Dẫn đường là Đoàn Hưng Trí – vua Đại Lý.

Cuối năm 1257 âm lịch, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.

MỞ MÀN

Quang cảnh trước sân đình, ngày hội làng được mùa tại nông thôn miền Bắc (Sơn Tây), hai bên trai gái quây quần hát quan họ (Bài Thanh Bình Ca), rồi rút vào. Tiếp theo đó, một đoàn thôn nữ xuất hiện với bài ca và điệu vũ ca ngợi được mùa. Một lúc sau, đoàn thôn nữ múa hát lùi dần vào hậu trường, chỉ còn tiếng hát xa vời, rồi tắt hẳn....

THANH BÌNH CA

NỮ: 

Kiếp người là người ngắn ngủi ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Ngắn ngủi bóng câu qua thềm (láy)

Hỏi người là người trai Việt ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Tinh thần, tinh thần yêu nước ra sao ? Anh Hai đó ơi (i hi)

Hãy trả áo cơm cho đời (láy)

NAM:

Quyết rằng là rằng quyết trả ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Quyết trả áo cơm cho đời (láy)

Hỏi người là người thanh nữ ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Tâm đồng, tâm đồng gánh vác giang sơn ? Cô Ba đó ơi (ihi)

Nghĩa cả sáng hơn trăng rằm (láy)

NỮ: 

Nghĩa rằng là rằng nghĩa cả ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Nghĩa cả sáng hơn trăng rằm (láy)

Hỏi người là người trai Việt ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Nguyện gì, nguyện gì dưới ánh gươm thiêng ? Anh Hai đó ơi (ihi)

Nước Việt sáng tươi muôn màu (láy)

NAM: 

Nước rằng là rằng nước Việt ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Nước Việt sáng tươi muôn màu (láy)

Thỏa lòng là lòng mơ ước ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Thanh bình, thanh bình khucù hát chơi vơi, cô Ba đó ơi (ihi)

Thanh sử nét son tô bồi (láy)

NỮ: 

Thanh rằng là rằng thanh sử ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Thanh sử nét son tô bồi (láy)

Hỡi người là người trai Việt ớ ớ ơ ớ ớ ớ

Đi vào, đi vào nếp sống cao sang, anh Hai đó ơi (ihi)

Võ Đạo viết lên ngang trời (láy).

ĐƯỢC MÙA

Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát

Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác

Chiêu hồn quê bao khúc ca yêu đời (láy)

Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát

Ước mong sao luau hai mùa thơm ngát

Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời (láy)

Lờ lững trôi qua trôi mãi trong chiều tà tiếng tiêu buồn êm quá.

Hồn ngất ngây trong tiếng hát đưa nhịp nhàng tiếng cười thơ ngây.

Mừng trăng khuya tiếng chày chênh chếch bóng khuất sau rặng tre thưa.

Tiếng ai hò chập chùng xa đưa.

Hò là hò lơ hó lơ hò lờ, nầy anh em ơi giã cho thật đều, giã cho thật nhanh, giã cho khéo kẻo trăng phai tàn. Khoan hò khoan tiếng chày khua vang mãi trong đêm tàn. Hò là hò lơ hó lơ hò lờ.

Chiếc quán bên đường có một mái hiên, bên ngoài bày hai chiếc bàn nhỏ lơ thơ một ống đũa, mấy chiếc chén úp, mộït điếu thuốc lào và mấy chiếc ghế gỗ (khoảng 1/3sân khấu). Nàng Ba đang loay hoay dọn dẹp bên trong quán.

ÔNG LỘC HỘ: (bước vào, khoan thai ngồi xuống phía bàn bên trái ngoài hiên)

Nào cháu Ba! Cho ta bát nước che tươi...

Nắm lá chè xanh cháu vẫn hái trên đồi

Ướp hoa bưởi, hoa nhài trong xóm nắng...

NÀNG BA: (Kính cẩn chào và mang ấm ra rót vào chiếc bát trên bàn được mở ra)

- Thưa thầy Lộc, hội làng ta đã vãn

Còn em Tư, sao chưa thấy trở về ?

Nó lại ham chơi ...

ÔNG LỘC HỘ: (cười vui vẽ):

- Nó tiễn bạn bè

Vừa mãn khóa đầu quân đi giúp nước

Ta hiểu lắm, cháu ba, trận Thăng Long thưở trước

Giặc vào thành, tàn sát hết sinh linh

Hưng Đạo Vương nhất đáng phải lui binh

Gia đình cháu...

(Nàng Ba xúc động, ngồi xuống ghế ôm mặt khóc, làm ông ngừng lại một chút, đổi hướng chuyện)

Ồ chuyện xưa tiếp diễn

Giặc đại bại lần đầu chưa nguôi hiếu chiến

Lại tính trò sách nhiễu dọa binh đao

Quê hương ta đành mài kiếm luyện anh hào ...!

NÀNG BA: (Lau nước mắt đứng lên):

Thưa thầy Lộc, vì khí thiêng tiếp nối

Song thân cháu ngày xưa ... khi hấp hối

Vẫn không quên trăng trối với đàn sau:

Nước non này không thoát khỏi binh đao

Phải luyện võ, dựng anh hào cứu nước...

ÔNG LỘC HỘ: 

Đúng, phải giữ vững cơ đồ thuở trước

Bằng bàn tay dũng lược trước thù xa

Bằng trái tim từ ái trước dân ta

Chí hướng đó tỏ như vầng nhật nguyệt

Đẹp như hoa, nhưng vững như núi biếc

Dài như sông và rộng tựa đại dương ...

(có thể hát điệu lý con sáo)

Bởi tình đất nuớc quê hương

Dùng chân lấy xã Đông Bang làm nhà

(làm, làm nhà, làm nhà ở xã Đông Bang)

Chợt quên nếp sống giang hà

Mở trường dạy võ dân ta giúp đời...

(giúp, giúp đời, giúp đời dạy võ thanh niên)

(Ông nhấp một hốp nước, trong lúc từ xa có tiếng vó ngựa nổi lên gần dần)

Lợi danh là bóng mậy trôi

Nước non là chuyện muôn đời bền lâu...

(Chuyện, muôn đời, muôn đời non nước yêu thương)

ĐOÀN TỰ TÔN: (Hiên ngang bước vào, phía ngoài còn tiếng ngựa hí vọng theo.

Chàng thoáng quan sát, rồi ngồi xuống chiếc bàn đối diện với ông Lộc Hộ, cởi bao kiếm dằn mạnh lên bàn tay đầy vẻ oai phong lẫm liệt, rồi cất giọng sang sảng hách dịch về phía nàng Ba):

Cô chủ quán! Cho ta hồ rượu quý

Nhớ thịt mềm chiên nhấy gấp vài cân

Tráng sĩ ta, vó ngựa thấm phong trần

Mau rượu thịt tẩy trần cho ấm bụng !

NÀNG BA: 

Thưa ! quán nghèo chốn đồi cao gió lộng

Dám đâu khoe hải vị với sơn hào...

Chút nem chua xin thế thịt chiên xào ...

ĐOÀN TỰ TÔN: 

Ồ...! Được thôi...! Nhớ cho ra rượu quý

Một bình men Đông Hải nhớ đong nay

Uống một bình xem thế sự vần xoay

Sao Hôm đó hóa sao Mai trong khoảnh khắc

(Nàng Ba lui vào, Đoàn Tự Tôn cảm khái rút kiếm gõ lên mặt bàn ngâm):

Bừng bừng uy vũ cõi trời Nam

Muôn thuở còn vang tiếng họ Đoàn

Ơn nước không quên thề bách thắng

Nghĩa nhà dám vượt cuộc thiên nan

Kiếm thần tỏa sáng muôn cường địch

Ngựa báu tung hoành vain ải quan

Đổi loạn thành yên thay tạo hóa

Anh Hùng nhất thống một giang san...

(chợt nhìn sang bàn ông Lộc Hộ, khẽ nhíu mày, vổ mạnh kiếm xuống bàn hách dịch hỏi):

Này lão hữu ! Bộ đồ kia ... Hừ ! võ phục

Thật hay đùa ! dám mặc dọa nhi đồng !

A ...! Có điều ta hỏi, biết hay không !

Phải nói that chớ quanh co, lỗ mỗ

Này! Có biết cửa nhà ông Lộc Hộ...?

ÔNG LỘC HỘ: (Ngạc nhiên)

Lộc Hộ...?

ĐOÀN TỰ TÔN: 

Hừ, người phải gọi là Ông Lộc Hộ

Để biểu dương tôn kính bậc hiền tài

ÔNG LỘC HỘ: (hỏi lại)

Ông Lộc Hộ ...

ĐOÀN TỰ TÔN: 

Người anh hùng suốt một lộ Quốc Oai

Hừ, vị đó chính là Ông Lộc Hộ

Giết giặc gúp đời, gần xa mến mộ

Suốt Đà Giang cho tới Phụng Hoàng Sơn

Từ Thăng Long trẩy xuống lộ Thiên Trường

Đều khét tiếng Đệ Nhất Nam Phương Võ Sĩ.

Núi Đa Chông đánh tan loài thổ phỉ

Chặn sông Lô, tận diệt giặc trên nguồn

Như tiềm long, hiện biến đó ai lường

Mới thấy khúc đầu, mình đuôi biến mất 

Sớm đó Ba Vì chiều qua Thạch Thất

Rồi, cần câu thuyền nhỏ thoắt sông Đà...

ÔNG LỘC HỘ: Tráng sĩ quá lời

ĐOÀN TỰ TÔN: (Rót rượu tợp một hơi uống cạn, cười ha hả):

Ta sợ vẫn nôm na

Không diễn tả nổi chân dung người được

A ... Vị đó có tên là Thầy Lộc

Quanh quất đâu đây dạy võ giúp đời

Nào tiên sinh, có biết, nói ra lời ...?

ÔNG LỘC HỘ: (Thở dài)

Tôi có nghe đó là người tri bỉ

Tự biết mình tài trí kém người xưa

Nên xếp gươm, buộc sách lánh sông hồ

Câu danh lợi thả trôi trên dòng suối ...!

ĐOÀN TỰ TÔN: (Vổ bàn quát)

Người biết gì đến nước nguồn, cây cội !!

Dám coi thường khí tiết bậc hùng anh !

Thấy rồng bay dám nghĩ rắn trong tranh

Nghe sấm nổ tưởng nồi cơm động vỡ!

(lại uống và ăn nhồm nhoàm)

Ta cấm đó ! Phải, vì... Ông Lộc Hộ

Người ta tìm vò võ đã ba thu...

ÔNG LỘC HỘ: Có phải ruổi rong vì tráng sĩ muốn thù ?

ĐOÀN TỰ TÔN: (Lại nổi giận quát tháo ầm ỉ)

Lại láo khoét ! Dám đặt điều vô lễ

Ta họ Đoàn, muốn phục hưng nhà Đại Lý

Cháu đích tôn Đoàn Thượng đại anh hùng

Giận vì quân Thủ Độ quá gian hùng

Đào hầm lợp cỏ lễ Thái Đường diệt Lý

Giật hầm sập, chôn sống mấy trăm người đang tế lễ

Bắt Chiêu Hoàng bé tý phải nhường ngôi

Tổ phụ ta thề chẳng đội chung trời

Cùng Nguyễn Nộn dấy binh trừ Thủ Độ

Ghê cho lão gian hùng bày trò Lục Sở

Chia đất giảng hòa chân vạc, thế tam phân

Súc siểm Nguyễn kia đột kích họ Đoàn

Rồi trở mặt dấy binh tiêu diệt Nguyễn

Từ đó sài lang nghênh ngang chính điện

Chính nghĩa diệt Trần phù Lý hóa tiêu vong...

ÔNG LỘC HỘ: 

Từ đó thù kia tráng sĩ ghi lòng ...?

Muốn khôi phục một ngai vàng đổi chủ ?

ĐOÀN TỰ TÔN: 

Phải, vì thế, ta muốn tìm ông Lộc Hộ

Nhờ một tay, làm lại chuyện hưng binh ...!

ÔNG LỘC HỘ: 

Căn cứ vào đâu, người muốn chuyện tày đình ?

ĐOÀN TỰ TÔN: (Cười ha hả, lại uống)

Ếch đáy giếng hiểu trời cao bằng miệng thúng

Người u mê thích nói chuyện trên trời

Túc hạ biết không ? Trò vật đổi sao dời

Sắp tái diễn triền miên trên đất Việt!

Kìa Mông Cổ, đám binh hùng chém giết

Vượt Trường Thành, diệt Tống với bình Kim

Lửa Bắc Kinh ngùn ngụt bốn mươi đêm

Thây tử sĩ chất cao hơn đỉnh núi

Như bảo tố cuống phong ào ào cuốn tới

Suốt Đông Âu, Tiêu Á thoắt tơi bời

Vùng Cận Đông nay gió máu tanh hôi

Nước La Sát chìm trong màu khói lửa

Chúng thừa thắng, nhắm Tây Âu tiến nữa

Rồi thăm dò trận nhỏ nước Nam này

Hai ngàn quân dưới trướng Ngột Lương Hợp Thai

Mới ấp đánh, Trần Triều lùi hết cỡ

Như gió lốc ập vào Thăng Long bỏ ngỏ

Tàn sát dân ta già, trẻ, gái, trai

Hưng Đạo Vương lùi về lộ Quốc Oai

Thu thập tàn binh cố tìm đường sống

Trần Nhật Hiệu muốn hàng, nêu câu nhập Tống

Vua toan theo, ngại Thủ Độ mưu đồ

Dám ba hoa: Đầu chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo

May giặc nhỏ, mới còn cơ cứu độ

Và cũng nhờ giặc không quen thủy thổ

Ốm bò lê, nên rượt đuổi tơi bời

Nhưng rồi sau, lại tiến cống từng hồi

Giặc bắt nộp bốn hạng người: Nho; Y; Lý; Thủ

Về tiến vật, lại trò xưa tích cũ

Bắt về Tàu kỳ vật nước Nam ta

Nào, bây giờ ta hãy thử bàn xa

Theo túc hạ, giặc hòa hay đánh nữa ?

ÔNG LỘC HỘ: Ôi vận nước, lại mắc vòng binh lửa ...!

ĐOÀN TỰ TÔN: (lại uống và khinh bạc)

Ta khá khen túc hạ hiểu thời cơ

Đã tới hồi hưng phục Lý triều xưa...

ÔNG LỘC HỘ: (giật mình thoáng sửng sốt)

Tráng sĩ nói gì, kẻ ngu phu không kịp hiểu

Sao giặc tới, phải tống tân nghênh cựu ?

ĐOÀN TỰ TÔN: (cười ha hả)

Có gì đâu túc hạ, thế tam phân

Nước Nam ta sẽ diễn lại một lần

Nhờ Mông Cổ sẽ diệt Trần hưng LÝ

Từ Vân Nam, Đoàn gia bên Đại Lý

Chạy về Nam cùng hợp sức điều quân

Ta chờ coi Mông Cổ phá nhà Trần

Sẽ xuất phát phục hưng nhà Đại Lý

Đất nước ta, rồi vang danh bốn bể

Từ Vân Nam chạy suốt tới Diễn Châu...

(lại uống rượu)

Chà, mãi vui, cần lập lại từ đầu

Đại sự ấy, phải một người cầm soái ấn

Chà, người đó ẩn danh, thừa tài lược trận

Chính duệ tôn vọng tộc Lý triều ta

Túc hạ biết không, người đó chính là...

ÔNG LỘC HỘ: (cười ngất)

Ông Lộc Hộ ...?

ĐOÀN TỰ TÔN: (Trừng mắt,. Đứng vụt dậy rút gươm)

Sao dám kêu căng cười ngất

Ông Lộc Hộ, vi anh hùng Thạch Thất

Chính tiềm Long ở ẩn Phượng Hoàng Sơn

Người ta tìm, người đó phải phi thường

Sao dám buông lời...

CẬU TƯ: (Em trai nàng Ba, vừa dẫn sứ giả Trần Thành tới, khoanh tay lên tiếng):

Dạ thưa thầy Lộc!

Ông khách lạ hỏi thăm đường, gặp con trên triền dốc

Ngựa lạc trong rừng, người hoảng hốt đã nhiều đêm...

ÔNG LÔC HỘ: (Giật mình quay lại hỏi khách)

Người tìm ai ?

TRẦN THÀNH: (Cung tay kính cẩn):

Mộ danh ông Lộc Hộ

Suốt tháng trường ruổi rong trên mình ngựa

Lạc lối rừng, không đến nỗi Phượng Hoàng Sơn

Rủi hóa may, gập cháu nhỏ bên đường

Lão gợi ý, mới về nay diện kiến!

ĐOÀN TỰ TÔN: (sửng sốt đứng bật dậy, chỉ vào ông Lộc Hộ hỏi hoảng hốt):

Ông Lộc Hộ... Không, không, người lầm sông với biển

Biển hay sông...? Chẳng lẽ mắt không tròng

Người là ai...? Ông Lộc Hộ phải người không?

NÀNG BA: (bước ra, trong lúc ông Lộc Hộ tủm tỉm cười)

Ông Lộc Hộ cũng có tên thầy Lộc

Từ Phượng Hoàng Sơn về ẩnnáu xã Đông Bang

Tráng sĩ vừa khen Rồng ẩn với Ngu Lang...

ĐOÀN TỰ TÔN: (vội quỳ xuống vài như tế sao, giọng nghẹn ngào thảng thốt)

Ông Lộc Hộ phải rồi... Người ở ẩn...

Tuổi trẻ vô tình, xin người chớ giận...

Sư Phụ ! Đệ tử mỏi công tìm

Suốt ba năm ruổi ngựa suốt ngày đêm

Mỏi mắt tìm người như chim non tìm mẹ

(Chỉ vào Trần Thành)

Thưa Sư Phụ ...Người này, sao... cũng thế ?

(Lùi lại, quan sát một lúc)

Đúng người rồi gian kế của Trần Triều!

(Tiến tới sờ mó vào y phục của khách lạ)

Hắn giả lái buôn đi lục lọi ở xóm nghèo

Hòng truy diệt duệ tôn nhà họ Lý!

(Hung hăng rút gươm)

Xin Sư Phụ đừng can ngăn đồ đệ

Kiếm long tuyền phải giết kẻ hung tàn!

Nghĩ tới Trần Triều, ôi ứa máu sôi gan...!

(Định ra tay, nhưng bị cậu Tư ngăn lại)

CẬU TƯ: 

Đồ lỗ mãng mau dừng ngay kiếm lại!

Nói ba hoa nào Sư Phụ, Môn Đồ

Khách của ta sao giở thói côn đồ ?

(Trần Thành lùi lại, Ông Lộc Hộ gật đầu ra hiệu ngồi xuống)

ĐOÀN TỰ TÔN: (cũng hung hăng nồi giận)

Tên tiểu tặc dám bênh Trần chống Lý

Trước Thái Sơn còn giở thói hung hăng

Rởn oai hùm, ta sẽ chém đầu phăng...!

(Cả hai cùng thủ thế. Trận đấu diễn ra chớp nhoáng giữa Đoàn Tự Tôn dùng kiếm và cậu Tư tay không. Chỉ vài thế , cậu Tư đã đoạt được kiếm và đánh ngã đối thủ)

ÔNG HỘC HỘ: (ôn tồn nâng Đoàn Tự Tôn dậy và ra hiệu cho cậu tư trả kiếm cho 

chàng)

Xin thứ lỗi tiện đồ vừa thất lễ

Việc còn đó, có gì mà tức khí

Xin nể tình bộc trực của lão phu

Mời tráng sĩ ngồi...

(Và khoát tay quay sang Trần Thành)

Tiên sinh an vị

(Cả hai kéo ghế ngồi xuống hai bên Ông Lộc Hộ. Ông quay sang Trần Thành)

Kẻ ngu phu biết sơ tài thiển trí

Trót lánh mình miền cỏ nội hoa ngàn

Bên Hươu nai mong hưởng thú an nhàn

Có điều chi khiến triều đình trọng vọng

Cử túc hạ tới vấn an đời sống?

TRẦN THÀNH: 

Túc hạ khiêm nhường tôi biết nói sao nay?

Vận nước đảo điên làm thế sự vần xoay

Giặc Mông Cổ đánh Kinh Đô, người đã biết

Suốt Thăng Long true già đều bị giết

Xác lương dân xếp đống chật đường đi

Thế giặc trùng trùng suốt giải biên thùy

Cảnh xâm lược name xưa toan tái diễn

Hưng Đạo Vương biết nước nhà nghịch biến

Vội ngày đêm thao dượt, chống quân Mông

Nghe đại danh người chẳng quản núi sông

Sai tại hạ tới thỉnh cầu, xin giúp nước...

ĐOÀN TỰ TÔN: (vổ bàn thét)

Lại Thủ Độ, trò hề mua chuộc

Đem lợi danh, nhử kẻ anh hùng

Sư Phụ đừng tin, tiếp sức lũ ngông cuồng

(Xa xa chợt có tiếng la thép ầm ầm, tiếng vó ngựa rượt đuổi, cảnh đốt phá 

sáng rực, cùng với tiếng người kêu khóc dồn dập)

ÔNG LỘC HỘ: (vội đứng bật dậy)

Giặc đã về, xin khoan câu khách lễ

Cháu Tư đâu! Ra nghe ngóng tình hình...

(Cậu tư vâng mệnh đi ngay)

ĐOÀN TỰ TÔN: (Vùng đứng bật dậy)

Chẳng có lẽ là.. tiền quân Đại Lý?

TRẦN THÀNH: (Ngơ ngác, hoảng hốt)

Đại Lý nào?

ĐOÀN TỰ TÔN: (cười ngất)

Đại Lý của thiên đình

Từ Vân Nam, xuống diệt ngụy Trần thoán nghịch

Thưa Sư Phụ đó là ta, không là địch ...

(Tiếng ngựa hí quân reo, tiếng kêu khóc gần hơn. Cậu Tư hốt hoảng chạy vào)

CẬU TƯ: 

Đám tàn quân Đại Lý từ Vân Nam...

Sư Phụ ơi...!Chúng đốt phá xóm làng

Cướp tài vật, giết người như đốn củi

Người ngựa trùng trùng, chúng đang ập tới...

ÔNG LỘC HỘ: (Mỉm cười quay sang Đoàn Tự Tôn)

Đoàn Tự Tôn .. Phải Đại Lý họ Đoàn

Đang vung bàn tay khát máu bạo tàn

Giết đám dân hiền vô tội?

ĐOÀN TỰ TÔN: (Lúng túng)

Không, không, không phải tiền quân Đại Lý...

ÔNG LỘC HỘ: (Đanh thép)

Dù chúng là ai, cũng giống tanh hôi

Đã giết dân. Là thù địch với ta rồi

Cháu Ba, cháu Tư, cháu Đoàn cùng sứ giả

Mau rút lui để mình ta tử thủ ngăn đường...

NÀNG BA: (chạy ra quỳ xuống)

Cháu không đành chạy giặc bỏ quê hương

Mặc thày Lộc chặn đường quân giặc dữ!

(quay sang mọi người hỏi lớn)

Các người biết mãnh hổ nan địch quần hồ chứ?

Đánh hay lùi, hãy nói rõ hết ra đi

Tài tướng quân đâu hãy tỏ mặt nam nhi...!

(mọi người đều hô đánh, trừ Đoàn Tự Tôn ngồi xuống ghế run lẩy bẩy)

ĐOÀN TỰ TÔN: 

Không được đâu... giặc đông, đừng... tự tử !

Hàng là hơn rồi sẽ tính chuyện trùng hưng...

CẬU TƯ:

Nào ngựa, nào gươm, nào vỗ ngực anh hùng,

Thấy giặc đến ngồi run như cốt khỉ

Thế cũng khoe Tự Tôn nhà họ Lý ...!

(định xông lại hành hung, ông Lộc Hộ phải khoát tay can)

ÔNG LỘC HỘ: 

Cháu Tư hãy khoan, đâu phải lúc thị cường !

(quay về phía Đoàn Tự Tôn)

Đoàn Tự tôn ngươi hãy trốn sau vườn...

(tiếng ngựa hí rồn rập, tướng giặc và một toán giặc khách xuất hiện)

TƯỚNG GIẶC: 

Ta muốn biết: Có ai tên Lộc Hộ?

Lộc Hộ chính là người ta hâm mộ

Nói cho mau, không chớ trách vô tình !

ÔNG LỘC HỘ: 

Xin tướng quân hãy bớt nổi lôi đình

Lộc Hộ chính là tôi, có điều chi chỉ giáo?

TƯỚNG GIẶC: (lùi lại, trỏ vào ông Lộc Hộ, cười ha hả)

Lộc Hộ đó ư? Thật tình hay nói láo?

Ta nghe danh, nay mới gặp nhà ngươi 

Nhưng Nam Phương Dũng Sĩ là thực chất hay nói chơi?

Muốn thử kiếm, côn, quyền hay kích dáo?

ÔNG LỘC HỘ: 

Kẻ ngu phu xin thêm lời thỉnh giáo

Thắng thì sao, va nếu bại thì sao?

TƯỚNG GIẶC:

Nếu ngươi thua, ta sẽ bắt về Tàu

Chừng người thắng

(cười vang)

Ta lui binh tức khắc!

ÔNG LỘC HỘ: 

Lời nói đó lấy gì làm chính xác?

TƯỚNG GIẶC: 

Ta xin thề!

ÔNG LỘC HỘ: 

Quyền cước sẽ trận đầu.

Nào tướng quân, xin dẹp heat gươm đao...

(Trận đấu ác liệt đưộc diễn ra. Cuối cùng, tướng giặc bị ông Lộc Hộ khóa tay 

giao cho cậu Tư. Rồi cấm kiếm dí vào ngực)

Trói nó lại đứng sau ta thành lớp...!

(mọi người đứng sau ông Lộc Hộ)

TƯỚNG GIẶC: 

Mới có trận đầu, còn trận sau tiếp tục

Sau nhà ngươi...

ÔNG LỘC HỘ: (ấn mạnh mũi kiếm sát ngực tướng giặc)

Miễn nói chuyện hơn thua

Cứu quê hương đâu phải chuyện vui đùa

Mà tỷ võ..thôi mau ra lệnh thoái!

TƯỚNG GIẶC: Ta không nói...

ÔNG LỘC HỘ: (Múa kiếm ra oai trước mặt tướng giặc)

Phải mau mau kêu gọi

Không, chớ trách ta đường kiếm vô tình

(Lũ bộ hạ tướng giặc ngơ ngác, muốn tiến lên lại bị ông Lộc Hộ múa kiếm dọa giết, tướng giặc đành phải lùi)

TƯỚNG GIẶC: (cuốicùng sợ chết, đành lên tiếng)

Bớ ba quân! Hãy cấp tốc lui binh...!

ÔNG LỘC HỘ: 

Phải lui binh mười dậm!

(lũ giặc rút khỏi, tướng giặc mới hoàn hồn khi ông Lộc Hộ thu kiếmlại)

TƯỚNG GIẶC:

Cởi trói cho ta. Ta đã làm theo lời dặn!

ÔNG LỘC HỘ: 

Thả ngươi đi, để tiếp tục điều quân

Về bao vây, tàn sát xã Đông Bang?

Ngươi lầm rồi, chờ quân Nam sắp tới...

Ta sẽ bàn giao trước khi cởi trói...

TƯỚNG GIẶC: 

Người anh hùng lấy thành tính làm đầu

Vậy mà ngươi nuốt lời hứa hay sao ?

ÔNG LỘC HỘ: 

Có chứ, ta tín với dân, thành với nước

Còn quân xâm lăng như ngươi, ta đâu tha được !

(Mọi người hoàn hồn bao quanh ông Lộc Hộ)

NÀNG BA: 

Thầy Lộc trí mưu, đổi Biến thành An

Cháu xin dâng chén rượu khải hoàn

CẬU TƯ: 

Sư phụ ơi, tay không thầy đuổi giặc

Tự ngàn xưa, câu chuyện thật hoang đường

TRẦN THÀNH: 

Lão cảm phục vị hiền tài Kinh Bắc

Trí mưu kia sẽ dẹp bọn ngông cuồng

Xin vì dân nhắc mệnh Hưng Đạo Vương

Mong túc hạ lên đường đi giúp nước...

ĐOÀN TỰ TÔN: (quỳ xuống)

Chút ảo vọng được thầy châm chước

Xin từ nay xóa hết mọi mưu đồ

Sư Phụ nhận cho... thâu nạp tiểu đồ...

ÔNG LỘC HỘ: (Đỡ Đoàn Tự Tôn dậy, nói với tất cả mọi người)

Đứng lên con! Lời con, ta chấp nhận

Kể từ nay, con phải quên thù hận

Rèn Tâm Thân vào Sức - Sống - Non -Sông

Đất nước nào riêng của một giống dòng

Đinh, Lê đó - đã Lý, Trần tiếp nối

Lẽ tuần hoàn. Từ vọng cơ sang thịnh hội

Mệnh trời ban ai tài đức kiên cường

Sông dài kia, sông khác lại dài hơn

Núi lớn đó, vẫn còn bao núi thẩm

(vái chào Trần Thành)

Kẻ sơn dã không quen nhìn trướng gấm

Xin tha cho, về neap sống sông hồ

Lộc Hộ tôi dành mắc tội cưỡng mệnh Vua

Chỉ ước nguyện lui về miền núi biếc

Lều cỏ,hang sâu, xem hoa, vịnh nguyệt

Nhưng vẫn không quên vận nước trước cuồng Mông...

TRẦN THÀNH: (Chấp tay vái tạ)

Lưng ngựa chinh yên còn đó đợi anh hùng

Không quên nước cớ sao người chẳng biết

Vó ngựa quân thù sẽ bụi mù trên đất Việt

Chốn hang sâu, lều cỏ, vững gì không?

Có cỏ nào sống nổi với quân Mông?

Hang sâu nào bảo vệ người khói lửa?

Nước sắp mất, xin người đừng do dự nữa...!

ÔNG LỘC HỘ: (Trầm ngâm)

Túc hạ hoàn toàn hữu lý giữa trần ai

Giữa trần ai...xin túc hạ ngắm sao Mai...

Ruộng vẫn đó, đàn trâu còn sới đất

Nhật nguyệt đó, có khi còn khi tắt

Trên rừng kia, hoa nở vẫn ươm chồi

Suối trên nguồn về với biển ngàn khơi

Mây tụ rồi tan, người còn rồi mất

Tất cả sống... để ngày mai về với đất...

Còn lại quê hương, Tổ Quốc sông hồ...

TRẦN THÀNH:

Người nói gì thêm, lão vẫn ngẩn ngơ?

ÔNG LỘC HỘ: (thở dài)

Người có thấy, sau cơn mưa trời sẽ nắng

Trải hào quang, trên khắp nẻo cô thôn?

Người có thấy mây đen rồi sẽ trắng

Nước từ sông ra biển lại mưa về nguồn?

NÀNG BA: (reo lên hoan hỉ)

Cháu hiểu rồi... Cháu hiểu rồi...Thưa thầy Lộc

Trời sanh mây, vì thế tục cần mưa

Trên cành non, nhện đó vẫn vương tơ

Trong rừng xanh, đàn chim kia phải hót

Trời xanh sông, sông phải mang nước ngọt

Có biển xanh, biển đó mặn muôn trùng

Các vật kỳ an..luật tạo hóa vô cùng!

ÔNG LỘC HỘ: 

Cháu đã hiểu, ta chỉ là người áo vải

Nghiệp trời ban, tằm đó phải se tơ

Kiếm giang hồ gặp màn nhung ngừng lại

Nghề võ kia, sông đã laic đò rồi...

(thở dài)

Sao kia phải hiện trên trời

Trăng kia phải mọc khi đời vào đêm...

(chấp tay vái tạ Trần Thành)

Xin cho kẻ ngu phu về núi thẳm

Nghiệp tằm tơ sẽ nguyện luyện anh hào

Người áo vải làm sao quen trướng gấm

Thiếu dâu rồi, tằm biết sống ra sao...?

TRẦN THÀNH: (cảm kích vái tạ)

Người sống mãi với niềm đau dân tộc

Người biến hóa những anh hùng đơn độc

Một thành mười, mười sẽ hóa nên trăm

Sắt kia rèn thành kiếm, trấn giang san,

Non nước vững, dân tộc ta còn mãi

Người thay đổi tam thân that vững chãi

Rồi hy sinh quyết dựng lại ngày mai

Người là ai thưa thầy Lộc, người là ai?

Tình vẫn đó, quê hương ta sống mãi...!

(Tất cả mênh mông thông cảm. Nổi một bản nhạc ngắn ca ngợi tình mẹ Việt Nam. Nhạc dứt, màn hạ nhanh)