Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng

Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng tối linh Thần Thần tích.

Thánh đản (ngày sinh) : mồng 7 tháng Giêng.

Thánh hoá (ngày giỗ) : mồng 6 tháng Chạp.

Tổ Đoàn Đông Hải Đại Vương húy Thượng, sinh giờ Nhâm Dần, ngày Giáp Dần tức mồng 10 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1184) đời Lý Cao Tông tại làng Bổng Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (nay là thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương), nguyên quán làng Cổ Phục, cựu quán làng Tô Xuyên (nay thuộc xã An Mỹ, Quỳnh Phụ, Thái Bình), cố quán Kẻ Noi Kẻ Cáo, hương Lai Cáo. 

Thúc phụ kiêm nghĩa phụ là Tổ Đoàn Công Phúc Lãnh làm quan đại thân Hà đê, quan huyện lệnh Trường Tân. Nghĩa mẫu là Lý Thị Thông, hiệu Từ Thiên, làm nhũ mẫu của hoàng tử Lý Sảm (Lý Huệ Tông). Tổ Đoàn Thượng ở với nghĩa mẫu trong cung vua nhà Lý, được học hành đến nơi đến chốn, đỗ khoa thi năm Giáp Tý(1204), niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ 3 đời Lý Cao Tông, rồi làm quan nhà Lý năm 23 tuổi.”

 Tham khảo : “Thân mẫu của ngài là Nguyễn Thị Thái, người làng Bổng Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (Ngọc phả đình Gia viên, Hải Phòng); Ngọc phả làng Trương Xá – Hưng yên lại chép là Nguyễn Thị Khang, người làng Xuân Độ, huyện Gia Phúc (Bổng Độ là tên thời Lý, Xuân Độ là tên thời Lê của làng Thung Độ, nay thuộc xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương); Thần phả đình An Câu (Phù Cừ, Hưng Yên) chép là Nguyễn Thị Phương.

Nghĩa phụ của ngài là đại thần Hà đê sứ Đoàn Công Phúc Lãnh, tự Phúc Hiền, nghĩa mẫu là Lý Thị Thông, hiệu Từ Thiên”

Niên hiệu Trị Bình Long ứng thứ nhất năm ất Sửu (1205) đời vua Lý Cao Tông, lộ Quốc Oai có giặc Muỗi chiếm cứ vùng núi Tản Viên, cướp phá vùng Thanh Oai. Bọn giặc đông và mạnh rất khó trừ. Nhà vua cử tướng Đoàn Thượng cầm quân đánh dẹp được, triều đình ban thưởng và phong cho thêm chức tước. Thấy tướng Đoàn Thượng có tài đức, có sức khoẻ, triều đình giao trọng trách cai quản hưng doanh lộ Hồng Châu (nay gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An, bắc Thái Bình, Hà Nam, đông Quảng Ninh, Bắc Ninh...), điều khiển trấn thủ mặt biển Đông. Lúc bấy giờ vùng châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Thái Bình đang hình thành chỗ cao, chồ trũng, lụt lội luôn luôn. Tổ Đoàn Thượng cùng đoàn tuỳ tùng nhiều nhất là người của dòng họ Đoàn lăn xả vào công việc, vận động nhân dân chung sức trị thuỷ, cơi đắp bờ vùng, quai đê ngăn lũ, tìm giống lúa chín sớm thu hoạch trước mùa nước lũ, tìm giống lúa mọc ngoi theo nước ngoài bãi sông vẫn có hiệu quả, trồng lúa Lốc ba giăng (3 tháng). Tổ Đoàn Thượng vừa lo sẵn sàng chiến đấu chống giặc, vừa lo dạy dân cày cấy, chăm chỉ trồng tỉa, hạn chế thiên tai dịch hại, thu hoạch thóc lúa hoa màu cây quả, thả cá chăn nuôi trên vùng nước phù sa. Cuộc sống dân Hồng Châu ngày một tăng cao toả đến khắp vùng đất nước Đại Việt.

            Còn biết bao nhiêu việc cần đến bàn tay khối óc của Đoàn tướng công. Có 2 nhiệm kỳ: Một về làm Đốc bộ vùng Ân Thi, Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hưng Yên); một về làm quan Đốc bộ lộ Hải Thanh, Long Hưng, Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây) để chăm lo cho dân an cư lạc nghiệp.

            Tướng Đoàn Thượng còn được vua Lý Cao Tông cử cầm quân đánh giặc dẹp loạn ở vùng Quy Hóa (Tuyên Quang). Theo Ngọc phả thần tích đình làng An Lộng, xã Chung Linh, Quỳnh Phụ, Thái Bình cho hay trong trận này Tô Đoàn Thượng đã được ba thiên tướng là Cao Sơn thần tướng, Hắc Sơn thần tướng, Thiên Bồng thân tướng âm phù giúp sức đánh giặc.

            Khi trấn thủ Hồng Châu, tướng công Đoàn Thượng phát hiện nhiều bọn giặc cướp biển, ban ngày chúng ẩn nấp ở các đảo ngoài khơi, lúc vắng xông ra trấn lột thuyền câu, chài lưới của ngư dân. Đêm đêm từng toán đột nhập đất liền cướp của, phá nhà, giết người vùng ven biển. Phải tốn công phu hàng năm theo dõi, rồi tướng công Đoàn Thượng gài (cài) người vào hang ổ mới đánh trúng đầu sỏ bọn cướp, giáo dục cải hoán bọn lâu la, đã dập tắt được nạn đạo tặc.

            Đoàn tướng công khuyến khích từng xóm làng nuôi thày dạy học, truyền bá ‘Tam cương, ngũ thường, ngũ luân, tứ đức”, đạo làm người đối với gia tộc, với xóm làng quê hương đất nước; nâng cao dân trí, xây dựng đời sống yên ổn.

            Tháng 2 năm Đinh Mão (1207) vua Lý Cao Tông sai tướng Đoàn Thượng mộ quân Hồng Châu với danh nghĩa là đi dẹp giặc bắt cướp. Là người có tâm huyết với dân, với nước, thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, Đoàn tướng công thấy không phải là giặc cướp mà chỉ là nhân dân lao động bị bóc lột, đói rét bần cùng nổi dậy chống lại bọn quan lại cường hào tham nhũng. Nhân dân bất bình thì nước không yên nên Đoàn tướng công không đàn áp mà còn mở kho cứu tế, thực hiện chính sách an dân, phủ dụ chiêu tập dân lưu tán làm trị thuỷ khai hoang lập ấp, cấp ruộng cho các làng, khuyên dạy dân cấy trồng chăn nuôi, phòng tránh bão lụt, giữ trị an, che đỡ cho nhân dân tránh khỏi cuộc tàn sát đẫm máu. Nhân dân được nhờ ơn huệ. Bọn gian nịnh sàm tấu rằng tướng công Đoàn Thượng tự làm điều “tác oai tác phúc”, trái luật lệ triều đình là đã mở kho lấy thóc phát chẩn. Vua Lý Cao Tông vội giận mất khôn sai bắt Ngài. Không cam chịu, Đoàn tướng công đã than : ‘Ta đối với nhà vua rất mực trung thành, một lòng giúp đờ, chỉ mong ích nước lợi dân. Nay bọn gian nịnh dèm pha khiến người trung bị ghen ghét, phải chăng mệnh trời đã thav đổi, thế nước chông chênh. Có lẽ đâu ta cam chịu ngồi yên để mang nhục, phải cứu nhân dân khỏi lầm than...". Rồi tướng công Đoàn Thượng cùng chú là tướng Đoàn Chủ và em con chú là tướng Đoàn Văn Lôi cùng các anh em họ Đoàn tuyển mộ thủ hạ trấn giữ Hồng Châu, xưng vương hiệu. Cuộc nổi dậy của Đoàn tướng công được nhân dân nhiều nơi nhiệt liệt hưởng ứng theo về rất đông, đào hào đắp luỹ xây thành. Quân dân các làng ấp sung vào việc phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu. Tô Đoàn Thượng cho lập đồn binh ở nơi cần thiết, xây thành Yên Nhân ( Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào, Hưng Yên), đại đồn Gia Viên (Ngô Quyền, Hải Phòng), Kênh Hữu (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), An Lộng (xã Chung Linh, Quỳnh Phụ, Thái Bình), đắp luỹ Bắc Đẩu-Nam Tào ở quê hương Bổng Độ... làm bản doanh, sử sách còn ghi chép những trận đánh oanh liệt của Đoàn tướng công, của lực lượng nhân dân Hông Châu. Trước cảnh rối loạn của triều đình, Đoàn tướng công đã dùng biện pháp khôn khéo mềm dẻo để tồn tại và phát triển.

            Tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1209), bọn Quách Bốc đem quân đột nhập cung vua đến bệ đá mát lấy xe ngự, chiếu ngự của vua bọc thây chở xác đồng bọn Phạm Bỉnh Di, rồi theo cửa Việt Thành kéo xuống Đông Bộ Đầu. Quách Bốc quay lại đem quân vào cung đua hoàng tử Lý Thầm và Lý Sảm cùng Đàm hoàng hậu và hai công chúa đến Hải ấp (nay là làng Lưu Xá, xã Công Tâm, Hưng Hà, Thái Bình). Trần Lý tên huý là Chép (cá) vốn truyền đời làm nghề đánh bắt tôm cá trên sông, sau nhờ dựa vào thế lực họ Tô, họ Lưu trong vùng, Trần Lý được làm chức nhỏ trông coi quét dọn hành cung Ngự Thiên tại làng Quách Bố cạnh làng Lưu Xá. Nhân loạn lạc đón hoàng tử Lý Sảm về nhà và gả con sái là Trần Thị Dung (biệt danh cô Ngừ) cho Lý Sảm. Trần Lý mượn thế chiếm cứ miền Hải ấp. Họ Trần có binh lực nhưng còn yếu, tạm thời đứng về phe Quách Bốc. Bọn Quách Bốc, Trần Lý lại đến cung Vạn Điểm lập Lý Thầm lên làm vua, chúng ngụy tạo triều đình con do họ Trần điều khiển chống lại vua Lý Cao Tông. Sau đó, cha con Trần Lý lại lập Lý Sảm lên thay làm vua xưng là Thắng Vương, giáng Lý Thầm xuống. Thấy họ Trần có âm mưu thoán nghịch, vua Lý Cao Tông dựa vào lực lượng họ Đoàn để kiềm chế họ Trần. Khi xảy ra loạn Quách Bốc, vua Lý Cao Tông phải chạy lên miền Quy Hoá Giang (nay là vùng đất các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang). Vua Lý Cao Tông sai thượng phẩm phụng ngự đến lộ Hồng Châu liên kết với tướng Đoàn Thượng mộ quân huấn luyện để đánh dẹp bọn Quách Bốc, Trần Lý. Đoàn tướng công đã phụng mệnh cùng anh em họ Đoàn tiến quân dẹp loạn, rước vua Lý Cao Tông về kinh đô, chỉnh đốn lại chính sự đánh tan quân Quách Bốc, ban phong tước lộc cho người có công, xét xử kẻ có tội, khao thưởng quân sĩ chu đáo. Tổ Đoàn Thượng được phong tước Hầu năm Kỷ Tị (1209).

            Nhà vua rất nể trọng và thấy tướng Đoàn Thượng có khả năng lái được cỗ xe lớn mới giao trách nhiệm trở lại điều khiển trấn thủ mặt biển đông. Tổ Đoàn Thượng xin vua miễn giảm tô thuế, lao dịch cho dân. Đến nơi trị nhậm, Tổ ổn định mọi việc, cả vùng yên ổn. Tổ lại khuyên dân đẩy mạnh khai hoang, cấp thêm nhiều ruộng đất cho dân các làng. Có làng như Đoàn Xá (Kiến Thuỵ, Hải Phòng) được cấp hơn tám trăm mẫu đất, làng Đông Khê (quận Ngô Quyền, Hải Phòng) được cả cánh đồng Tam thiên mẫu (ba nghìn mẫu đất) giao cho người họ Trần ở Bắc Giang là thuộc hạ của Tổ quản lý, cấp cho làng Gia Viên chính âm cũ là Da Viên (Ngô Quyền, Hải Phòng) được ba ngàn mẫu đất, làng Đoàn Xá bao gồm Đoạn Xá, Thượng Đoạn, Hạ Đoạn (An Hải, Hải Phòng) được năm nghìn mẫu đất, làng Kênh Hữu (An Hòa, Vĩnh Bảo, Hải Phòng) được hơn hai trăm mẫu đất, làng Đoàn Xá (Quỳnh Phụ, Thái Bình) được 3500 mẫu đất, v.v... còn có làng cũng có tên là Đoàn Hương, Đoàn Trang, Đoàn Xá vốn là trang ấp của họ Đoàn thời Lý. Nhiều làng khác hầu như làng nào trong nước cũng được Tổ Đoàn Thượng cấp cho thêm ruộng đất. Tổ dạy dân trồng dâu nuôi tằm người có học được trọng dụng, người cày cấy thừa thóc gạo, tạo cho dân được cuộc sống ấm no, có thể gọi là một vùng giàu có thịnh vượng. Nhân dân được nhờ công ơn rất mến mộ tài đức, tin tưởng phục tùng làm theo lời Đoàn tướng công. Dân gian có câu:

"Có cha có mẹ ở gần

Làm con hết thảy quây quần về đây"

            Dân coi Đoàn tướng công như cha mẹ họ, mọi gia đình được đoàn tụ sum vầy. Từ đó, số người quy phục nhiều thêm và người đến nương tựa ngày một đông trong đó có cả người họ Trần không thuộc họ Trần ở Hải ấp Lưu Xá (Thái Bình).

            Tháng 4 năm Canh Ngọ (1210), vua Lý Cao Tông băng hà, hoàng tử Lý Sảm lên nối ngôi, đế hiệu là Lý Huệ Tông, lập Trần Thị Dung làm Nguyên phi. Từ đó quyền bính nằm gọn trong tay anh em họ Trần (Hải ấp). Nhân cơ hội đó họ Trần cũng từ Thiên Trường, Kiến Xương đem quân đánh chiếm vùng Khoái Châu (Hưng Yên). Vậy là từ năm Tân Mùi (1211) đã hình thành ba thế lực phân cát lớn: họ Đoàn ở Hồng Châu, họ Trần ở Hải ấp, họ Nguyễn (Nguyễn Nộn) ở Bắc Giang. Lực lượng họ Đoàn lớn mạnh nhất. Họ Trần chỉ có vùng Hải ấp hẹp gồm Kiến Xương, Hưng Hà, Thiên Trường.

            Năm Tân Mùi (1211) đổi niên hiệu là Kiến Gia, vua Lý Huệ Tông coi tướng Đoàn Thượng là người có tình cùng chung nhũ mẫu, thăng chức cho làm Phụ quốc Thái uý, Tiết chế thống lĩnh các đạo quân của triều đình.


Màu đỏ: khởi nghĩa Phí Lang ở làng Đại Hoàng ( Ninh Bình).

Màu Tím: Họ Đoàn ở Hồng Châu ( Hải Dương, Hải Phòng).

Màu Xanh: Họ Trần ở Lưu Xá ( Thái Bình).

Màu Cam: Phạm Du ở Nghệ An.

Màu Vàng Đậm: Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc ở Đằng Châu ( Hưng Yên).

Màu Hồng Nhạt: Họ Phạm ở Nam Sách thuộc Hồng Châu.  

 

Mùa xuân năm Nhâm Thân 1212, lực lượng họ Trần đã lớn mạnh, lập bè kết đảng, chiếm cứ nhiều vùng bên bờ sông Hồng Hà, sông Lô, sông Đuống, sông Đáy để mở rộng thế lực. Trong triều thì anh em họ Trần thâu tóm quyền binh, có âm mưu thoán đoạt. Bấy giờ vua Lý Huệ Tông và Đàm Thái hậu lại dựa vào lực lượng họ Đoàn để trừ diệt họ Trần. Vua phong Thái úy Đoàn Thượng thêm nhiều chức tước từ thấp đến cao tuyệt đỉnh: Đông Hải đô thống, Đông Hải bản lộ Hồng Châu trấn thủ, Đốc bộ Sơn Nam kiêm Đốc bộ Ân Thi, Tuần sát sứ giả trợ tán hoàng gia huệ trạch, Tham nghị đô đài ngự sử kiêm tri khu mật viện, Thống lĩnh tổng đốc binh sự, Tiết chế đại nguyên soái, Binh bộ thượng thư, Quyền chưởng các đạo cấm quân, Phụ quốc Thái uý, Thái sư tể tướng Lý triều.

            Họ Đoàn và họ Trần có địa bàn gần kề nên càng dễ đụng độ. Theo chỉ dụ của nhà vua, họ Đoàn đem quân tiến đánh anh em ho Trần ở Hoàng Điểm, Khoái Châu (Hưng Yên). Trần Tự Khánh biệt danh là cá Ngạnh bị thua trận, tì tướng bị bắt, y giận dữ phá đê cho nước sông Hồng Hà chảy tràn vào các làng rồi rút về. Nhân dân miền Khoái Châu oán hận dã tâm của Trần Tự Khánh, đã mất lòng tin đối với họ Trần, theo về với họ Đoàn. Họ Trần xem họ Đoàn là thế lực đối địch mạnh đáng gờm nhất. Trần Tự Khánh kết giao với Nguyễn Tự ăn thề ở bên Triều Đông làm bạn sống chết. Anh em họ Trần và Nguyễn Tự hợp quân đánh nhau với quân họ Đoàn ở Bần ái, Hồng Châu, quân Trần và quân Nguyễn Tự thua to phải rút quân về. Trần Tự Khánh lại đánh nhau với tì tướng của thông soái Đoàn Văn Lôi là tướng Đinh Cẩm, đóng ở Đọi Sơn (Duy Tiên, Hà Nam).

            Năm Quý Dậu 1213, niên hiệu Kiến Gia thứ 3, vua Lý Huệ Tông tự làm tướng ngự giá thân chinh đi đánh bọn Trần Tự Khánh, đến Mễ Sở gặp quân của Vương Lê, Nguyễn Cải là thủ hạ của Trần Tự Khánh. Hai bên chưa giao chiến, mới nghe tiếng hò reo, quân triều đình đã tự tan vỡ, bọn Lê, Cải bắt cả thuyền rồng. Cánh quân đạo Bắc Giang do Đàm Dĩ Mông thống xuất tới bến An Diên (Thường Tín, Hà Tây) thì bị quân của Trần Thừa tiến đánh. Bọn Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm ở tả ngạn cũng tiến đánh quân nhà vua. Bọn Phan Lân, Nguyễn Nộn từ Quốc Oai đến ô Chợ Dừa (Hà Nội) bị các tướng Hồng Lộ là Đoàn Cấm, Vũ Hốt chặn đánh hộ giá vua Lý Huệ Tông chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn). Thế lực họ Trần đã mạnh, bọn Trần Tự Khánh tràn vào kinh đô cướp vàng bạc, của cải các kho, đốt phá Thăng Long, ngụy lập vua khác rồi cùng rút khỏi Thăng Long. 

            Tuy đã chiếm được kinh đô, Tự Khánh vẫn chưa dám cướp ngôi vua nhà Lý. Họ Trần vẫn lấy danh nghĩa phò Lý để thu phục lòng dân và dễ bề tiến đánh tướng Đoàn Thượng, cho nên vài ngày sau Trần Tự Khánh sai người đem thư lên Lạng Châu gặp Lý Huệ Tông để tỏ ý xin lỗi. Nhưng vua Lý Huệ Tông biết rõ dã tâm của họ Trần nên không chấp nhận.

            Tháng 3 năm Giáp Tuất (tháng 4 năm 1214), Trần Tự Khánh lấy danh nghĩa Chương Tín Hầu sai người đón con vua Lý Anh Tông là Huệ Văn Vương đến Hạc Kiều lập làm vua. Huệ Văn Vương lên ngôi nguy lập ở điện Đại An cải nguyên là Càn Ninh, hiệu là Lý Nguyên Vương.

            Các tướng họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang, do tì tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn lừa giết được tướng Đoàn Nguyễn. Bấy giờ nội bộ phe Trần Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự, miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó Nguvễn Nộn ở Bắc Giang cũng phản lại anh em Trần Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đô Bị, Nguyên Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp nặng. Trần Tự Khánh lại vét hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hoả đốt kinh đô rồi đón Lý Nguyên Vương đến hành cung Lý Nhân (Hà Nam).

            Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long chống nhau với Trần Tự Khánh, Nộn lại cho người đến lung lạc Lý Huệ Tông và Đàm Thái Hậu đang ở Nam Sách với họ Đoàn, vua Lý Huệ Tông đã cả tin thấy đỏ ngỡ là chín, đang đêm trở về Thăng Long, phong cho Nguyên Nộn tước hầu. Chính quyền trung ương của họ Lý lại liên minh với thế lực cát cứ thứ ba là bọn Nguyễn Nộn ở Bắc Giang nhưng chỉ một thời gian ngắn, chưa đầy nửa năm, thấy dã tâm xấu của Nguyễn Nộn, vua Lý Huệ Tông lại bỏ Nguyễn Nộn.

            Ngoài ba lực lượng phân cát lớn: phía bắc là Nguyễn Nộn, phía đông là tướng Đoàn Thượng, phía nam là anh em Trần Tự Khánh, cục diện trong nước Đại Việt lúc đó còn có các thế lực nhỏ ở các địa phương cũng khá nhiều như Nguyễn Bát, tước ồ Kim hầu ở đất ô Kim (Hoài Đức, Hà Tây, Hà Nội) chống lại triều đình nhưng không theo Tự Khánh, cha con họ Hà cha truyền con nối ở đất trại Quy Hoá ( Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang), ngoài ra còn thế lực cát cứ ở Đại Hoàng (Ninh Bình), họ Phạm ở Nam Sách. Khắp nơi trong nước ở vào trạng thái hỗn loạn.

            Đầu năm Giáp Tuất (1214), vua Lý Huệ Tông lại chạy đến hương Bình Hợp (nay là xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Tâv). Trần Tự Khánh được hào trưởng địa phương là Đỗ Năng Tế giúp đỡ đánh đuổi vua Lý Huệ Tông, chiếm hương Bình Hợp rồi đem quân bao vây Thăng Long, đốt cung điện, phá nhà cửa, vua Lý Huệ Tông phải dựng lều tranh để ở.

            Tháng 4 năm Bính Tý (1216), triều đình nhà Lý lại gặp một nguy nan mới là các tướng ở Cảo Xã (Nhật Tân, Từ Liêm, Hà Nội) là Đồ át, Đồ Nhuế tước Liệt hầu chống lại nhà vua. Vua Lý Huệ Tông dựa vào Nguyễn Bát, sai Bát đánh lại nhưng không thắng. Trước tình hình đó, vua Lý Huệ Tông đành quay về dựa họ Trần (gửi thân cho hổ dữ). Năm ấy vua Lý Huệ Tông lập lại Trần Thị Dung làm Thuận Trinh phu nhân. Trước đó Thị Dung đã bị giáng xuống làm ngự nữ.

            Trần Tự Khánh sai Vương Lê đem thuỷ quân đón rước Lý Huệ Tông sang Cửu Liên, Tự Khánh tỏ rất mừng cho tướng sĩ hò reo. Từ đó Tự Khánh lấy danh nghĩa vua Lý quyết ý đánh bọn Bắc Giang hầu Nguyễn Nộn, Hiền Tín hầu Nguyễn Bát, Hồng hầu Đoàn Văn Lôi. Lúc này Nguyễn Vương bị phế xuống tước cũ Huệ Văn vương.

            Anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng. Trần Tự Khánh làm Thái úy khi xướng lễ không phải gọi tên, Trần Thừa được phong chức Liệt hầu làm nội thị phán thủ, Trần Liễu (con Trần Thừa) và Phùng Tá Chu, Lại Linh được tước quan nội hầu, con cả Trần Tự Khánh tên là Trần Hải được phong tước vương. Tập đoàn quý tộc mới này đã lấn át được quý tộc nhà Lý và sẽ thu hút dần dần những thế lực quý tộc khác mà giành quyền thống trị. "Việt sử lược'' có ghi: “ Huệ Tông dần dần mắc chứng điên, chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần đã về tay kẻ khác. 

Màu đỏ: khởi nghĩa Phí Lang ở làng Đại Hoàng ( Ninh Bình).

Tiếp tục tồn tại. Đến 5. 1216 bị Trần tự Khánh tiêu diệt.

Phạm Du đã bị tiêu diệt.

Phạm Bỉnh Di- Quách Bốc đã bị họ Trần thôn tính.

Màu Tím: Họ Đoàn ở Hồng Châu ( Hải Dương, Hải Phòng).

họ vẫn nắm giữ vị trí cũ, trở thành 1 trong 3 thế lực mạnh nhất nước lúc bấy giờ.

Màu Xanh: Họ Trần ( Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên).

Ngay trong năm 1209, họ Trần thôn tính phe Quách Bốc ( Hưng Yên). 1 thời gian sau, Tô Trung Từ qua đời vì tai nạn, nên họ Trần kế thừa luôn lực lượng của Tô Trung Từ rồi mở rộng thế lực. Thế là họ đã bành trướng ra được ba vùng Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, và các địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang,... trở thành phe sẽ thống nhất quốc gia sau này.

 

Màu Hồng Đậm: họ Nguyễn ở Quốc Oai ( thuộc Hà Tây)

Cầm đầu bởi Nguyễn Nộn là 1 tướng cũ của nhà Lý, 1 trong 3 thế lực mạnh nhất thời cuối Lý ( họ Trần, họ Đoàn và họ Nguyễn). Thế lực này sẽ tiêu diệt họ Đoàn, Nguyễn Nộn sẽ chết bệnh nhanh sau đó để nhà Trần thống nhất đất nước.

 

Màu Xanh Nhẹ: Ô Kim hầu Nguyễn Bát ở Ô Kim ( Hoài Đức thuộc Hà Tây)

Cầm đầu bởi 1 tướng cũ của nhà Lý, tuy chống triều đình nhà Lý nhưng không theo họ Trần. Có một dạo nhà Lý phải nương nhờ họ.

 

Màu Xanh Đậm: Đỗ Át, Đỗ Nhuế ( Từ Liêm thuộc Hà Nội bây giờ).

2 tướng cũ của nhà Lý, nổi loạn vào tháng 4 năm 1216. Vua Lý phải nhờ Nguyễn Bát đánh lại nhưng không thắng.

 

Màu Xanh Lá: Họ Hà ở Quy Hóa ( Yên Bái, Tuyên Quang dọc sông Hồng).

Một họ miền núi có thế lực. Khi Lý Cao Tông bị loạn Quách Bốc, ông ta đã chạy lên đây nương nhờ. Phe này tồn tại đến tận khi nhà Trần thống nhất đất nước, nhưng không can dự gì vào bất cứ cuộc xung đột nào, dù là một phe mạnh.

 

Màu Hồng Nhạt: Họ Phạm ở Nam Sách thuộc Hồng Châu ( Hải Dương, Hải Phòng):

 

Màu Vàng: triều đình nhà Lý.

đến năm này thì họ chỉ còn nắm được khu vực quanh Thăng Long.

            

Tháng 6 năm Đinh Sửu (1217), niên hiệu Kiến Gia thứ 7, tướng Đoàn Thượng được triều đình nhà Lý phong tước Đông Hải Đại Vương. Tướng Đoàn Văn Lôi được triều đình nhà Lý tái phong tước Hồng Hầu.

            Tháng 6 năm Mậu Dần (1218), Trần Thừa tên biệt danh là cá Dưa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung gả em gái là Trần Tam Nương cho Hồng hầu Đoàn Văn Lôi để thu phục lực lượng đất Hồng Châu. Thế là họ Trần “trừ” được một thế lực chống đối quan trọng bằng hôn nhân chính trị.

            Trần Tự Khánh tiến đánh Nguyễn Tự, Nguyễn Cuộc ở Quốc Oai, Đỗ Bị ở Cam Giá (Sơn Tây), chiếm các thuộc ấp ở Phong Châu. Trần Tự Khánh lại đánh Nguyễn Bát để chiếm đất Từ Liêm, Bát phải chạy đến sách An Lạc (Vĩnh Phúc).

Cũng năm Mậu Dần (1218), Trần Thừa đem binh đi đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, lúc đang mùa nước lũ, y lại cho phá đê để nước sông Thương, sông Cầu chảy tràn vào các hương ấp rồi theo thế nước mà tiến đánh, nhân dân bị tàn hại nhiều về người và của.

            Tháng 5 năm Canh Thìn (1220), anh em họ Trần tiến đánh Hà Cao ở Quy Hoá, chia quân làm hai đạo : Trần Tự Khánh, Trần Thừa theo dòng sông Quy Hoá (một đoạn sông Hồng), bọn Lại Linh, Phan Cụ theo đường sông Tuyên Quang (sông Lô), hai đạo cùng đánh, Hà Cao cùng vợ con phải thắt cổ chết.

            Cuối năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh, tên loạn thần nghịch tặc của nhà Lý, đệ nhất công thần của họ Trần, chết ở Phù Liệt.

            Đầu năm Giáp Thân (1224), Trần Thừa tiếm chức Phụ quốc Thái uý, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, thống lĩnh các quân hộ vệ cẩm đình.

            Lý Huệ Tông không có con trai chỉ có hai con gái, lớn là Thuận Thiên công chúa gả cho Trần Liễu (con cả Trần Thừa), con gái thứ là Chiêu Thánh công chúa huý là Phật Kim, sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218), mẹ là Trần Thị Dung, Thị Dung thường tư thông với Trần Thủ Độ (là em họ, con chú ruột của thị).

            Tháng 7 năm ất Dậu (1225), anh em Trần Thủ Độ cưỡng ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh 7 tuổi lên làm vua, đế hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Quyền hành trong triều hoàn toàn nằm trong tay Trần Thủ Độ. Anh em họ Trần đem Lý Huệ Tông giam lỏng ở chùa Chân Giáo danh nghĩa đi tu. Trần Thủ Độ lại đưa cháu là Trần Cảnh tên huý là Trần Canh (cá Lành Canh ) con thứ của Trần Thừa cùng 7 tuổi vào hầu nữ hoàng. Lợi dụng trò chơi nghịch té nước của hai đứa trẻ cùng 7 tuổi, Trần Thủ Độ lèo lá vua cho nước, anh em họ Trần tạo hôn nhân chính trị, chuẩn bị đảo chính cướp ngôi vua nhà Lý.

            Ngày 12 tháng Chạp năm ất Dậu, tức ngày 11 tháng 1 năm 1226, dưới sự điều khiển của Trần Thủ Độ (biệt danh là cá Chày) và Trần Thị Dung, anh em họ Trần dàn dựng Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh hiệu là Trần Thái Tông. Trần Thủ Độ giết vua Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo, cưới Trần Thị Dung làm vợ, tiệc tùng thâu đêm suốt sáng nhiều ngày. Thủ Độ tàn sát hàng loạt tôn thất, đại thần của nhà Lý. Sử chép hàng trăm người vào lễ ở Thái miếu bị Trần Thủ Độ sai đào hầm bẫy bí mật trước làm đổ sập thái miếu, chôn sống cả mấy trăm người. Hoàng tử Lý Long Tường trốn chạy thoát sang Cao Ly (Triều Tiên), giúp vua nước này đánh thắng giặc Nguyên Mông thế kỷ 13, thành đệ nhất công thần của Cao Ly. Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông cướp lấy vợ của anh ruột Trần Liều là Thuận Thiên công chúa đã có mang ba tháng (sinh ra Trần Quốc Khang), giáng hoàng hậu Chiêu Thánh xuống sống cô quạnh đến năm 40 tuổi thì Trần Thánh Tông đem gả cho tướng Lê Tần tức Lê Phụ Trần. Trong dân gian đã có câu:

Trách người quân tử bạc tình,

Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.

            Lê Phụ Trần ( Lê Tần) với công chúa Chiêu Thánh sinh 1 trai, 1 con gái. Con trai là Lê Trọng, được ban quốc tính là Trần Bình Trọng anh hùng chống giặc Nguyên, bị giặc Nguyên bắt sát hại.

            Vương triều nhà Lý mất, tổn tại 216 năm, 9 đời vua.

            Họ Trần không đổ máu nhưng nhà Lý, họ Lý và các họ công thần như họ Đoàn ... bị Trần Thủ Độ dìm trong biển máu. Biết tin họ Trần đã cướp ngôi vua Nhà Lý, Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng giữ nghĩa lớn mấy lần dấy binh đánh nhà Trần hòng lấy lại. Nhưng thế không thể khôi phục được, Đoàn Đại Vương cùng các tướng sĩ trở về Hồng Châu cố thủ ở thành Yên Nhân.   Đoàn Đại Vương cho lập đồn ở các cửa biên, cửa sông để cảnh giới. Tổ Đoàn Thượng chọn An Lộng là đồn tiền tiêu (An Lộng nay thuộc xã Chung Linh, Quỳnh Côi, Thái Bình), Tổ Đoàn Thượng còn đóng quân ở Miễu Chìa làng Kênh Hữu (xã An Hoà, Vĩnh Bảo, Hải Phòng) ở gần sông Hoá Giang (nay còn khu gò thất tinh có 7 hầm lớn xây bằng gạch Bát Tràng hình chữ nhật và hình múi bưởi), lập đại đồn ở Gia Viên (Ngô Quyền, Hải Phòng) khu đất ven sông Nam Triệu (Sông Cấm), đắp luỹ Bắc Đẩu-Nam Tào ở quê hương Bổng Độ làm căn cứ v.v... Tổ Đoàn Thượng củng cố căn cứ Hồng Châu, mộ binh, chiêu dân, vừa làm việc quân vừa tăng gia sản xuất nuôi quân dân đánh giặc, xây dựng xóm làng hương ấp thành căn cứ chiến tuyến vững chắc. Quân nhà Trần nhiều lần đến tập kích đại đồn Yên Nhân, đồn này do con của Tổ làm tướng vẫn giữ được. Quân Trần thất bại quay về.

            Tổ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, thường đích thân đến các đồn để đôn đốc việc binh và hạ lệnh cho các tướng sĩ phải bố phòng cẩn mật, ai trái lệnh sẽ nghiêm trị.

            Tháng 4 năm Bính Tuất (1226), Trần Thủ Độ mang quân theo đường biển cửa sông Nam Triệu và sông Bạch Đằng vào đánh úp. Nhưng Đoàn Đông Hải Đại Vương đã sắp đặt kế hoạch trước cho quân mai phục cả bốn mặt. Ngày rằm tháng 4 năm Bính Tuất (1226) , Đoàn Đông Hải Đại Vương hạ lệnh cho các tương sĩ : "Ta đã quyết định, hễ cùng quân Trần giao chiến chốc lát giả thua rút lui, tất nhiên quân Trần Thủ Độ nhân thế ấy đuổi theo, chờ trống hiệu, quân ta đổ ra quyết chiến một trận. Địch sẽ hết hòng rút chạy, bị quân ta bắt sống dễ dàng... ". Các tướng vâng theo diệu kế đã định.

            Ngày 18 tháng 4 năm Bính Tuất (1226), liên quân Trần họp ở cửa sông Thạch Giang (sông Đá Bạc), Thủy Nguyên, Hải Phòng, giao chiến được mấy hiệp, quân của Đoàn Đông Hải Đại Vương rút theo kế sách, quân Trần  sa vào bẫy trận. Quân Đoàn nghe hiệu lệnh xông ra vây tròn đánh dữ. Quân Trần  chết đuối quá nửa, máu loang đỏ dòng sông. Thủ Độ cải trang trốn chạy thoát được về kinh thành.

            Ngọc phả Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng đình làng Gia Viên chép: “ Việc canh phòng ở đó ngày càng nghiêm ngặt. Hơn mười năm sau, quân nhà Trần không dám qua lại dòm ngó. Một cõi Hồng Châu đều thuộc về Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Tuy có chí tranh bá đồ vương nhưng Đức thánh Đoàn Thượng luôn lấy dân làm gốc, rèn luyện quan quân không xâm phạm của dân một sợi tóc. Vì thế, người đến quy phục không ngớt và đều được nhờ ân huệ, nhân dân cảm công đức, rất mực trung thành vời Ngài".

            Do việc canh phòng nghiêm ngặt ở căn cứ đại đồn của Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng nên từ đó làng Gia Viên (Da Viên) có tên nôm là làng Cấm, ngõ Cấm, sông Nam Triệu có thêm tên là Sông Cấm...

            Nhà Trần thấy lực lượng của Đoàn Đông Hải Đại Vương và Nguyễn Nộn vẫn rất mạnh, không dễ dẹp được, bèn lập mưu kế phong vương cho hai người nhưng Đoàn Đông Hải Đại Vương không đến nhận. Trần Thủ Độ bàn với Trần Thái Tông rằng: ‘Hiện nay Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng cậy mạnh giữ hai vùng Đông và Bắc như hai con hổ chưa dễ dẹp yên được, chi bằng đóng giả quân Đoàn đánh quân Nguyên Nộn và ngược lại để ly gián và đưa thư cầu hoà với Nộn lại phong tước cho y, sai Nộn đánh Đoàn Thượng. Hai thế lực tranh nhau sẽ phải đổ một, bấy giờ ta nhân cơ hội mà cất quân thì sẽ không mệt nhọc mà nên công được". Trần Thái Tông y lời, bí mật sai người mang thư kèm tiền vàng vóc lụa đút lót cho Nguyễn Nộn và sai đánh quân của ngài Đoàn Thượng. Nguyễn Nộn mừng lắm đến ngay thành Yên Nhân nói dối Đoàn Đại Vương rằng cùng hợp sức đánh diệt họ Trần, bàn ngày làm lễ ăn thề kết nghĩa tình anh em. Đoàn Đông Hải Đại Vương tin lời và hẹn ngày mùng sáu tháng Chạp năm Mậu Tuất (1228) đến chùa Kim Quy đất Đồng Đao xứ Mao Điền làm lề hội thề. Đến ngày hẹn, Đoàn Đông Hải Đại Vương cũng không ngờ nên một đao một ngựa đến họp, chỉ mang theo có vài chục người hầu, Nguyễn Nộn đã cho quân mai phục sẵn bốn mặt. Khoảng giờ Dần, Đoàn Đại Vương vừa đến, có hiệu báo, phục binh của Nguvễn Nộn đổ ra vây chặt vài chục vòng, lại có quân Trần Thủ Độ phối hợp. Lập tức Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng nhảy lên ngựa múa đao hết sức đánh giết từ giờ Dần đến giờ Ngọ, chém được tì tướng của Nguyễn Nộn và vài trăm thủ cấp giặc. Nhưng sức lẻ, thế cô, quân hầu có ít lại mỏi mệt và bị kẹt giữa ba phía đông, nam, bắc. Đoàn Đông Hải Đại Vương bị một viên tướng họ Trần lén đằng sau chém bị thương ở cổ và trận vong vào ngày giờ Ngọ ngày mồng 6 tháng Chạp năm Mậu Tuất (dương lịch là tháng 1 năm 1239) tại trận đánh cuối cùng ở xứ Đồng Đao, Mao Điền, cẩm Giàng, Hải Dương thọ 56 tuổi. Nguyễn Nộn và Trần Thủ Độ đã đàn áp nhân dân Hồng Châu, tàn phá, bắt con trai, con gái họ Đoàn và cướp bóc tài vật, trâu ngựa của nhân dân Hồng Châu. Sau khi Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng qua đời, nhiều tướng sĩ tuẫn tiết theo, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hồng Châu mới bị dập tắt.

            Tổ Đoàn Thượng hoá tại gò Mả Chín thuộc đất làng Trà (xã Giai Phạm, Yên Mỹ, Hưng Yên) thiên táng mối xông thành mộ.

            Nhân dân Mao Điền, Thung Độ xây lăng dựng đền thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Đền chính ở xã Yên Nhân, huyện Đường Hào (nay là Mỹ Hào, Hưng Yên) bên bờ sông Hồng Giang (nay gọi là sông Bần), hướng ra đường cái xứ Đông (đường 5). Sau khi Tổ Đoàn Thượng hiên thánh, chỉ trong vùng từ Bần Yên Nhân tới Mao Điền đã có 72 làng lập đình đền miếu thờ. Khắp các tỉnh ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và duyên hải nước ta có tới hàng nghìn đình đền nghè miếu phủ thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Nay thống kê chưa đầy đủ mới ghi được trên 500 nơi thờ, có làng xã lập hai đình thờ như ở cổ Trai (Kiến Thuỵ), Đông Am (Vĩnh Bảo), xã Tân Dương (Thủy Nguyên, Hải Phòng) có 2 đình và 3 miếu thờ. ở Tức Mặc (Thiên Trường) có 2 đền thờ Đức thánh Đoàn Thượng. Có tới hàng ngàn sắc phong cúa các triều đại Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn, đời vua nào cũng tặng từ một đền nhiều sắc phong Thượng đẳng Thần tối linh Phúc thần, gia tặng nhiều mỹ tự. Lúc sinh thời, nhân dân làng Định Công (Hà Nội) đà lập sinh từ thờ sống để hoằng dương công đức của Tổ Đoàn Thượng.

NHỮNG ĐỊA PHƯƠNG 

Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM THỜ ĐÔNG HẢI ĐẠI VƯƠNG ĐOÀN THƯỢNG

 

Sinh thời Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng đã được nhân dân làng Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội lập sinh từ phụng thờ. Sau khi Ngài hiển thánh, theo thống kê chưa đầy đủ ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ nước ta đã có hàng trăm làng xã lập đền, đình, nghè, miếu thờ cúng Ngài. Nhiều nhất là các tỉnh thành Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định... Đặc biệt làng Phong Niên (Cát Hải) lập 3 đình, làng Cổ Trai (Kiến Thụy) lập 2 đình, Đoàn Xá (Kiến Thụy) lập 3 đình thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

  Địa hạt Hải Phòng ngày nay, thời Lý là một phần lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải. Thời Trần, một phần Hải Phòng và Quảng Ninh thuộc lộ Hải Đông, phần lớn Hải Phòng và Hải Dương thuộc lộ Hồng. Thời Hậu Lê thuộc đạo thừa tuyên Nam Sách, sau đổi là trấn Hải Dương. Thời Tây Sơn vẫn thuộc trấn Hải Dương. Đầu thời Nguyễn vẫn là một phần trấn Hải Dương. Năm 1831, Minh Mạng đổi là tỉnh Hải Dương, trong đó có Hải Phòng ngày nay. Trước năm 1963 là hai đơn vị hành chính: tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng.

1./HUYỆN AN HẢI

  Phần đất thuộc lộ Hồng Châu còn gọi là lộ Đông Hải thời nhà Lý. Nay là huyện An Hải, thành phố Hải Phòng. Các làng thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Ở huyện An Dương cũ, nay là địa bàn huyện An Hải, quận Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng đều ghi thánh hiệu là: Lý triều Đông Hải bản lộ, Kinh đô phụ quốc, Thái úy, Quyền chưởng các đạo cấm quân, Tiết chế nguyên soái, Binh bộ thượng thư, Tuần sát sứ giả, Đô thống, Tham nghị đô đài ngự sử, Thái sư tể phụ. Phù tộ an dân, dực tán cương nghị, anh uy hiển ứng, âm phù quốc vận, trợ tán hoàng gia huệ trạch, hoằng hợp quảng nhuận. Trác vĩ, dực bảo, trung hưng Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, thượng đẳng thần.

1.    Đình Đình Vũ, xã Tràng cát, huyện An Hải, Hải Phòng

2.    Đình miếu Hạ Đoan, xã Đang Hải, huyện An Hải, Hải Phòng

3.    Miếu Thượng Đoạn, xã Đông Hải, huyện Hải An, Hải Phòng. 

4.    Đình Đoạn Xá, xã Đông Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

5.    Đình miếu Phương Lưu, xã Đông Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

6.    Đình miếu Bình Kiều, xã Đông Hài,huyện An Hải, Hải Phòng. 

7.    Đình Trực Cát, xã Tràng Cát, huyện An Hải, Hải Phòng.

8.    Đình miếu Lương Khê, xá Tràng Cát, huyện An Hải, Hải Phòng.

9.    Đình miếu Cát Bi, xã Tràng Cát, huyện An Hải, Hải Phòng.

10.        Đình Cát Khê, xã Tràng Cát, huyện An Hải, Hải Phòng.

11.        Đình Tê Chử, xã Đồng Thái, Huyện An Hải, Hải Phòng.

12.        Đình Bạch Mai, Xã Đồng Thái, huyện An Hải, Hải Phòng.

13.        Đình Hoàng Mai, xã Đồng Thái, huyện An Hải, Hải Phòng.

14.        Đình Trạm Bạc, xã Lê Lợi, huyện An Hải, Hải Phòng.

15.        Đình Tri Yếu, xã Đặng Cương, huyện An Hải, Hải Phòng.

16.        Đình Đào Yêu, (Điều Yêu) (Quốc Tuấn, An Hải, Hải Phòng).

17.        Đình Nhu Kiều, (Quốc Tuấn, An Hải, Hải Phòng).

18.        Đình Kiều Thượng, (Quốc Tuấn, An Hải, Hải Phòng).

19.        Đình Kiều Trung, (Quốc Tuấn, An Hải, Hải Phòng).

20.        Đình Kiều Hạ, (Quốc Tuấn, An Hải, Hải Phòng).

21.        Đình Miếu Trung Hành, Đằng Lâm,  An Hải, Hải Phòng.

22.        Đình Lực Hành, xã Đằng Lâm, huyện An Hải, Hải Phòng.

23.        Đình Thư Trung, xã Đằng Lâm, huyện An Hải, Hải Phòng.

24.        Đình miếu Kiều Sơn, xã Đằng Lâm,  An Hải, Hải Phòng.

25.        Đền Lương Xâm, xã Nam Hải, huyện An Hải, Hải Phòng. Di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đã xếp hạng.

26.        Đình miếu Xâm Bồ, xã Nam Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

27.        Đình Xâm Đông, xã Nam Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

28.        Đình Lũng Bắc, xã Đằng Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

29.        Đình miếu Hạ Lũng, xã Đằng Hải, Huyện An Hải, Hải Phòng. Di tích lịch sử van hóa xếp hạng.

30.        Đình Lũng Đông, xã Đằng Hải, huyện An Hải, Hải Phòng.

31.        Đình Dư Hàng, gọi tắt là Đình Hàng, xã Dư Hàng Kênh, huyện An Hải, Hải Phòng.

32.        Đình miếu An Quý, xã Lê Thiện, huyện An Hải, Hải Phòng.

33.        Miếu Hai Xã, chung của hai làng Dư Hàng và Hàng Kênh, vốn là một làng sau tách ra.

 Tổng số: 33

2./ HUYỆN AN LÃO

  Thời cổ là huyện Câu Lậu, thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải, nay là huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Có một số làng thuộc các xã Bát Trang, Quốc Tuấn thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương ĐoànThượng, trung thần nhà Lý. Riêng xã Bát trang, trước năm 1813 là tổng Quán Trang, còn gọi là Quan Trang, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, từ năm 1887 thuộc huyện An Lão, tỉnh Hải Phòng. Xã này có 8 làng Trang đều thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, có công hưng doanh Hồng Châu khi đóng đồn ở đây. Ngài đã chiêu dân quai đê trị thủy, dạy dân trồng loại lúa ngoi theo nước, và trồng lúa chín sớm để thu hoạch trước mùa nước lụt, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra. Có công đánh giặc trừ trộm cướp, an dân.

1.     Đình Quán Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng 

2.     Đình Nghĩa Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

3.     Đình Trực Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

4.     Đình Hạ Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

5.     Đình Ích Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

6.     Đình Đại Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

7.     Đình Trung Trang, xã Bát Trang, huyện An Lão, Hải Phòng.

8.     Đình Thượng Trang, xã Bát Trang,  An Lão, Hải Phòng.

9.     Đình Trực Đào, xã Quốc Tuần, huyện An Lãi, Hải Phòng.

10. Đình Trực Định (tên cũ Chân Định), xã Quốc Tuấn, huyện An Lão, Hải Phòng.

 

Tổng số: 10

3./ HUYỆN CÁT HẢI

  Hải đào, thời Lý lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Hồng Hải, thời Trần thuộc lộ Hải Đông, Hậu Lê là huyện Ân Phong, Chi Phong, Tư Phong, sau lại đổi tên Hoa Phong. Phủ Hai Đông thuộc đạo thừ tuyên An Bang, tên cũ của An Bang là trấn Triều Dương, còn gọi là châu Vĩnh An, sau đổi thành trấn An Quảng. Thời Nguyễn là huyện Hoa Phong, phủ Hải Đông, trấn Quảng Yên. Năm 1841, Thiệu Trị đổi tên là huyện Nghiêu Phong (Ngao Phong), phủ Sơn Định, tỉnh Quảng Yên. Từ 1945 - 1956 là huyện Cát Hải, tỉnh Quảng ninh. Từ 1956 đến nay là huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.

 Huyện Cát Hải có nhiều làng thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương.

1.    Đình Nghè Gia Lộc, tên cũ là Thiên Lộc, thị trấn Cát Hải, Hai Phòng, 

2.    Đình Nghè Đôn Lương, thị trấn Cát Hải, Hải Phòng (xã Hòa Quang cũ). Di tích lịch sử văn hóa xếp hạng.

3.    Đình Nghề Phong Niên, xã Văn Phong, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

4.    Đình Miếu Gia Luận, xã Gia Lâm, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

5.    Đình Nghĩa Lộ, xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

6.    Đình Nghè Phù Long, xã Phù Long, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

7.    Đình miếu Văn Chấn (tên cũ Văn Minh), xã Văn Phong, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

8.    Đình Lục Đô, thị trấn Cát Hải, Hải Phòng, thờ bản cảnh thành hoàng Đông Hải Đại Vương thượng đẳng thần

9.    Đình miếu Lương Năng (tên cũ Lương Lãnh), thị trấn Cát Hải, Hải Phòng.

10.        Đình miếu Hòa Hy, xã Hòa Quang, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.

11.        Đình miếu Hoàng Châu, (còn gọi Vàng Châu) xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

12.        Đình miếu Đồng Bài, xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

13.        Đình Trân Châu, (tên nôm là Nang) xã Trân Châu, huyện Cát Hải, Hải Phòng.

Tổng số: 13

4./ THỊ XÃ ĐỒ SƠN

  Vùng đất ven biển, thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải. Riêng bán đảo Đồ Sơn thời cổ có tên là Nê La, nơi đầu tiên các sư Ấn Độ đến truyền đạo Phật vào nước ta, sau đó đến Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) rồi mới tới Lạc Dương (Trung Quốc).

 Một số làng thuộc xã Bàng La, thị xã Đồ Sơn thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.

1.Đền Hòn Dáu trên đảo Hòn Dáu, thị xã Đồ Sơn Hải Phòng 

2.Đình miếu Bàng Động, (Thời cổ là Đại Bàng, gọi tắt là làng Bàng), xã Bàng La, thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng.

3.Đình Phụ Lỗi, (còn gọi là Phụ Nội, Phụ Lồi hoặc Phụ Lai, tên Nôm là Nhội), xã Bàng La, thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng.

4.Đình miếu Tiểu Bàng: Gọi tắt là làng Bàng (tên cũ là Hoàng Tiếu), xã Bàng La, thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng.

5.Đình Làng Quí Kim, Đồ Sơn Hải Phòng.

6.Đình Vạn Ngang, núi Đồ Sơn, Hải Phòng

Tổng số: 6

5./ QUẬN HỒNG BÀNG

1.Đình Hạ, Phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. 

2.Đình Thượng Lý, phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, Hải Phòng.

 

Tổng số: 2

6./ HUYỆN KIẾN THÚY

  Đơn vị hành chính thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, thời Trần thuộc lộ Hồng, thời Hậu Lê là huyện Khúc Dương, sau đổi là huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Trước năm 1945 là phủ Kiến Thụy, tỉnh Kiến An. Nay là huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

1.    Đình Cao Bộ (tên cũ là xã Kiện Bộ, còn gọi là Khang Bộ), xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

2.    Đình Nhân Trai, xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy Hải Phòng. 

3.    Đình Đại, thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng (Quê nhà Mạc).

4.    Đình Đoài, Thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

5.    Đình Làng Đoan Xá, (còn có tên là làng Đoàn Xá), xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy,

6.    Đình Đắc Lộc, xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

7.    Đình Đông Xá, xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Từ năm 1900 tách khỏi làng Đoan Xá để lập làng riêng.

8.    Đình Phúc Xá, xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. (Phúc Xá vốn là vùng đất thôn Đoài của làng Đoan Xá (Đoàn Xá) tách ra từ 1900).

9.    Đình miếu Phúc Lộc, xã Đa Phúc, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

10.        MiẾu Đông Chanh, thôn Đại Lộc, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. 

11.        Đình Quý Kim, xã Hợp Đức, huyện Kiến Thụy Hải Phòng.

12.        Đình Hồi Xuân, xã Tú Sơn, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

13.        Đình Kim Sơn, xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

14.        Đình Kỳ Sơn, xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

15.        Đình Lão Phong, xã Tân Phong, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

16.        Đình miếu Nghi Dương, (tên nôm là làng Mõ) xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

17.        Đình Mai Dương, xã Phúc, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

18.        Đình miếu Quế Lâm, (thường gọi làng Quế) xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Thời xưa có chợ Quế, có phủ đệ nhà Mạc.

19.        Đình miếu Xuân La, (tên nom là làng Đối), xã Thanh Sơn, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

20.        Đình Tam Kiệt, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

21.        Đình miếu Thọ Linh, xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

22.        Đình miếu Phù Du (tên cũ Cung Hiệp), xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng.

23.        Đình Tú Đôi, xã Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng

24.        Đình Thôn Đông, Đoài, Chiếng, làng Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, Kiến Thụy, Hải Phòng

Tổng số: 24

7./ HUYỆN TIÊN LÃNG

  Thời Lý là đơn vị hành chính thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải, thời Trần là Hồng Lộ. Thời Hậu Lê là huyện Tiên Minh thuộc phủ Hạ Hồng, sau là phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Trước 1945 là huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An. Từ năm 1962 thuộc Hải Phòng. Huyện có nhiều làng thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương.

1.    Đình Duyên Lão (còn đọc là Diên Lão), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

2.    Đình miếu Đông Ninh (tên cũ Đông Minh), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

3.    Đình Chàng Xuyên (còn đọc là Trình Xuyên), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

4.    Đình miếu nghè Dư Đông, thị trấn Tiên Lãng, Hải Phòng.

5.    Đình Đông Côn, xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

6.    Đình Thái Hòa, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

7.    Đình miếu Tiên Lãng (tên cũ là Tân Minh, còn gọi là Tiên Minh, đời Đồng Khánh đổi là Tiên Lãng), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. 

8.    Đình miếu Nhuệ Ngự (tên nôm làng Ngừ), xã Tự cường, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Trước năm 1945 là thôn Nhuệ Đông làng Đại Công.

9.    Đình Phương Đôi, (tên cũ Hoa Đôi), xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

10.        Đình An Dụ, (tên cũ An Hựu), xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

11.        Đình An Tử Ngoại, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

12.        Đình Mỹ Huệ, (tên cũ Mỹ Lộc), xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

13.        Miếu Mỹ Khê, xã Tự Cường, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

14.        Đình Lao Chử, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

15.        Đình Lao Khê, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

16.        Đình Hán Nam (thôn Nam Tử Hạ), xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

17.        Đình miếu Sinh Đan, xã Tiên Cường, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

18.        Đình Đốc Hành ( còn gọi là Giá hành) xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.

 Tổng số: 18

8./ HUYỆN THỦY NGUYÊN

  Trước năm 1813 còn có tên là huyện Thủy Đường. Thời Lý thuộc lộ Hồng Châu. Nay thuộc Hải Phòng, có các làng thờ Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.

1.    Đền miếu An Lư, (còn ghi là An Các, tên nôm là làng Sưa), xã An Lư, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

2.    Đình nghè Do Nghi, (gần sông Bạch Đằng), xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. (Thời xưa có đồn binh Đoan lễ gần bến rừng).

3.    Đình miếu My Sơn, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.( Hồ sơ thần tích huyện Thủy Nguyên năm 1938 ghi là Mỹ Sơn).

4.    Đình My Đông, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

5.    Đình miếu Trung Sơn, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

6.    Đình miếu nghè Mỹ Giang, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

7.    Đình miếu Phả Lễ, (tên cũ xã Phổ Lễ, còn gọi là làng Phả) xã Phả Lễ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

8.    Đình miếu Phục Lễ (còn gọi là làng Phục), xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

9.    Đình Lập Lễ, xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

10.        Đình Trúc Sơn, (còn gọi là Chúc Sơn), xã Đông Sơn, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

11.        Đình miếu Tuy Lạc, xã Thủy Triều, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

12.        Đình Giáp Động, xã Hoa Động, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

13.        Đình miếu Thiểm Khê, (còn ghi là Thiếm Khê), xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. (Trước 1945 thuộc tổng Trúc Động, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên).

14.        Đình miếu Trà Sơn, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

15.        Đình Trại Kênh, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

16.        Đình Tân Dương & Lỗi Dương, Xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng

  Tổng số: 16

9./ HUYỆN VĨNH BẢO

    Thời Lý là vùng đất giáp ranh giữa lộ Hồng Châu và lộ Hải Thanh (Thái Bình + Nam Định).

1.    Đình An Ninh, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, trước năm 1813 thuộc tổng Viên Lang, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương.

2.    Đình miếu An Biên, xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.Trước 1945 thuộc tổng Kê Sơn, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.

3.    Đình nghè Cung Phúc, xã Trung Lập, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng là quần thể kiến trúc nghệ thuật có giá trị, còn nhiều tượng gỗ. Tên cũ là xã Kính Chúc, tổng Viên Lang, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương.

4.    Đình miếu Đông Lôi, (tên nôm là Đồng Rồi), xã Thắng Thủy, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Trước 1813 tổng Viên Lang, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương. Thời Lý là trại Đông Lôi.

5.    Đền đình Đông Am, (tên nôm làng Cát), xã Tam Cường, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. (Có 2 đền thờ Đoàn Đại Vương).

6.    Đình Đông Hà Phương, xã Thắng Thủy, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

7.    Đình Hội Am ( tên Nôm làng Cõi), xã Cao Minh, Huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

8.    Miếu Hàm Dương, xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

9.    Đình Kênh Hữu, ( tên cũ Kinh Hữu, tên Nôm làng Chìa), xã An hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

10.        Đình Lôi Trạch, xã Hòa Bình, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

11.        Đình miễu Liễu Kinh, xã Việt Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

12.        Đình miếu Nghĩa Lý, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

13.        Miếu Nhân Giả, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

14.        Đình Tây Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng

15.        Đình Thượng Đông, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng

16.        Đình An Lãng, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng

 Tổng số: 16

10./ QUẬN LÊ CHÂN

1. Đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, Hải Phòng, tên chữ là Nhân Thọ Đình, gọi tắt là Đình Kênh.

 Tổng số: 01

11./ QUẬN NGÔ QUYỀN

 Phần đất thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, nay là nội thành Hải Phòng.

1.    Đình An Khê, phường Cát Bi, Quận Ngô Nguyền, Hải Phòng.

2.    Đình Đông An, phường Cát Bi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

3.    Đình Đồng Xá, phường Cát Bi, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

4.    Đình Đông Khê, Phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

5.    Đình miếu Gia Viên (chính âm Da Viên) tên nôm làng Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. 

6.    Đình Miếu Hào Khê, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

7.    Đình Lạc Viên, phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng.

8.    Đình Phụng Tháp, ( tên Nôm làng Phọng), xã Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

9.    Đình Vạn Mỹ, phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

10.        Đình An Đà ( tên cũ là An Chân), phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.

 Tổng số: 10

Hải phòng có tổng số 149 đình đền thờ Đông hải Đại vương Đoàn Thương

A.       TỈNH HẢI DƯƠNG

I./HUYỆN GIA LỘC

1      Đình Bổng Độ (Xuân Độ), nay là thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

2.     Đình Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

3.     Đình Thung Du, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

4.     Đình Đĩnh Đào, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

5.     Đình Hoàng Du, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

6.     Đình An Đình, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

7.     Đình Đào Giang, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

8.     Đình Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

9.     Đình Gia Xuyên, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

10.Đình An Tân, xã Gia Tân, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

11.Đình Thống Kênh, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

12.Đình Làng Sáu, tổng Đoàn Bái, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

13.Đình Làng Năm, tổng Lạc Thi, huyện Gia Lộc, Hải Dương.

14.Đình Thôn Tự Luân, tên nôm là làng Đà, xã Lê Lợi, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương

     Tổng số: 14

II./HUYỆN THANH HÀ:

1.  Đình Cập Thượng, tổng Cập Nhất, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương

2.  Đình Làng Sáu, tổng Đại Bối, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương

3.  Đình Làng Năm, tổng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương

4.  Đình Làng An Liệt, Xã Thanh Hải, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương 

 

5.  Tổng số: 04

III./ HUYỆN CẨM GIÀNG:

1. Đình Làng Bốn, tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

2. Đình La Trữ, tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

3. Đình đền Bái Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

4. Đình Tú La, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

5. Đình Kinh Uyên, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

 Tổng số: 05

IV./ HUYỆN NINH GIANG:

 Đình Cáp Thượng, làng Lang Viên, tổng Bất Bế, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Tổng số: 01

 

V./  HUYỆN THANH MIỆN:

1. Đình làng Hai, tổng Phù Nội, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

2. Đình làng Lang Gia, tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

 Tổng số: 02

VI./ HUYỆN TỨ KỲ:

 Đình Làng Hai, tổng An Thổ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

 Tổng số: 01

       Hải Dương có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng:27

C.    TỈNH HƯNG YÊN

I./ HUYỆN MỸ HÀO:

1. Đền Chính Yên Nhân, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

2. Đền Làng Bần, nay là thôn Cộng Hòa,thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

3. Đền Phú Đa, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

 Tổng số: 3

II./   HUYỆN YÊN MỸ:

1. Đình Yên Thổ, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.

2. Đình làng Buộm, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

3. Đình làng Giữa, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

4. Đình Làng Ngự, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

5. Đình làng Trà, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

6. Đình Chi Long, xã Hoàng Đôi ( xưa là tổng Đồng Than), huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

7. Đình Yên Đô,  xưa là tổng Thượng Cổ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

8. Đình làng Hai, xưa là tổng Yên Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

 Tổng số: 8

III./ HUYỆN KIM ĐỘNG:

1. Đình Nghĩa Quang, tổng Lưu Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

2. Đình làng Hai, tổng Tiên Cầu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

3. Đình làng Hai, tổng Mỹ Hào, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

4. Đình Trương Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

5. Đình làng Ba, tổng Hoàng Trạch, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Tổng số: 5

IV./ HUYỆN VĂN GIANG:

 Đình Văn Phú, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

 Tổng số: 1

V./ HUYỆN TIÊN LỮ:

 Đình Chế Trì, xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

 Tổng số: 1

VI./ HUYỆN PHÙ CỪ:

 Đình Đoàn Đào, xã Đoàn Đào, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.

1. Đình An Cầu, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên

2. Đền Trà Bồ, xã Phan Sào Nam, Phù Cừ, Hưng Yên

 Tổng số: 3

VII./ HUYỆN VĂN LÂM:

 1.Đình Thanh Khê, tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.

 Tổng số: 1

VIII./ HUYỆN MỸ HÀO:

1. Đền Chính Yên Nhân, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

2. Đền Làng Bần, nay là thôn Cộng Hòa,thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

3. Đền Phú Đa, thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mý Hào, tỉnh Hưng Yên

Tổng số: 3

VII./ THÀNH PHỐ HƯNG YÊN

1.Đình thôn Tiền Thắng, xã Bảo Khê, tp Hưng Yên - Hưng Yên

Tổng số : 01

 Hưng Yên có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng:26

D.  TỈNH THÁI BÌNH

I./ THỊ XÃ THÁI BÌNH:

1. Thị xã Thái Bình, xã Trần Lãm, thị xã Thái Bình.

Tổng số: 1

II./ HUYỆN QUỲNH PHỤ:

1.Đình Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

2.Đình An Lộng, xã Chung Linh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

3.Đình An Hiệp, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

4.Đình Thượng Phúc, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

5.Đình Thôn Đội, xã Tứ Thanh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

6.Đình Lộng Khê, xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

 Tổng số: 6

III./ HUYỆN HƯNG HÀ:

1.Đình làng Bốn, tổng Hà Lý, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Tổng số: 1

IV./ HUYỆN THÁI THỤY:

1.Đình Sa Cát, tổng cát Đàm, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

2.Đình làng Hai, tổng Trừng Hoài, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

3.Đền thờ tổ họ Đoàn, ở Tu Trình, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

4.Đình Thanh Khê, tổng Tân bồi, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

 Tổng số: 4

V./ HUYỆN TIÊN HƯNG:

1.Đình làng Hai, tổng Đô Kỳ, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình.

Tổng số: 1

VI./ HUYỆN KIẾN XƯƠNG:

1.  Đình Thượng Phúc, xã Mỹ Lạc, tổng Cao Mại, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, ngày nay thuộc xã Quang Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. 

2.  Đình Son, xã Mịnh Hưng, Kiến Xương, Thái Bình

Tổng số: 2

Thái Bình có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:15

E.  TỈNH NAM ĐỊNH

I./ HUYỆN MỸ LỘC:

1.Đình Đồng Nhuệ, Lê Xá, tổng Cao Đài, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Tổng số: 1

II./ HUYỆN NAM TRỰC:

1.Đình An Nông, tổng An Nông, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

2.Đình Đỗ Xá, tổng Đỗ Xá, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

 Tổng số: 2

III./ HUYỆN NGHĨA HƯNG:

1.Đình Đồng Bạn, tổng Cổ Liêu, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

2.Đình làng Một, xã Thanh Khê, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

 Tổng số: 2

IV./ HUYỆN VỤ BẢN:

1.Đình Tam Tri, Thái La, tổng Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

2.Đình Đồng Đội, tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

3.Đình An Thứ, tổng Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

4.Đình Đại Lai, tổng Hổ Sơn, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Tổng số: 4

V./ HUYỆN Ý YÊN:

1.Đình Hoàng Lê, tổng An Lạc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

2.Đình Tống Xá, tổng Vũ Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

3.Đình Làng Năm, tổng Tức Mặc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

4.Đình Phú Giáp, xã Yên Phong, Ý Yên, Nam Định

Tổng số: 4

VI./ HUYỆN XUÂN TRƯỜNG:

1. Đình Thanh Khê, tổng Cổ Kiên Lao, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Tổng số: 1

Nam Định có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:14

F.  TỈNH NINH BÌNH

HUYỆN GIA KHÁNH:

1.Đình Chấn Lữ, tổng Dương Vũ, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình.

2.Đình Thanh Khê, tổng Quan Vĩnh, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Ninh Bình có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:02

G.  THỦ ĐÔ HÀ NỘI

I./ HUYỆN THANH TRÌ:

1.Đình Định Công, xã Định Công, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội (Nay là phường Định Công, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

2.Đình Nhân Hòa, xã Tả Thanh Oại, Thanh Trì, Hà Nội, 

Tổng số: 2

II./ HUYỆN ĐÔNG ANH:

1.Đình Ngọc Giang, tổng Tuần Lễ, huyện Phúc Yên, phủ Đông Anh, TP. Hà Nội (Nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội).

2.Đình Thụy Lôi, tổng Xuân Nộn, huyện Phúc Yên, phủ Đông Anh, TP. Hà Nội (Nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội).

Tổng số: 2

III./ QUẬN BA ĐÌNH:

1.Đình đền miếu Nhược Công, (Tên thời Lý là phường Bộ Công, (Nay thuộc phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội).

Tổng số: 1

IV./ HUYỆN TỪ LIÊM:

1.Đình Làng Phùng Khoang, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội

Tổng số: 1

V./ QUẬN THANH XUÂN:

2.Đình Khương Đình, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội

Tổng số: 1

VI./ HUYỆN PHÚ XUYÊN:

1.Đình Nhị Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây nay thuộc Hà Nội

Tổng số: 1

 Hà Nội có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng: 08

H. TỈNH VĨNH PHÚC

HUYỆN KIM ANH:

1.  Đình Tào Mai, Mai Nội, tổng Phù Lỗ, Kim Anh, Vĩnh Phúc.

2.  Đình Song Mai,  tổng Bắc Ninh, huyện Kim Anh,  Vĩnh Phúc

3.  Đình Thái Phù,  tổng Phù Xá, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc

Tổng số: 3

Vĩnh Phúc có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:03

J. TỈNH BẮC NINH

I./ HUYỆN TỪ SƠN:

1.Đình Làng Bốn, tổng Hà Lỗ, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (Hà Lỗ nay Thuộc Đông Anh, Hà Nội).

Tổng số: 1

II./ HUYỆN TIÊN DU:

1.Đình Bái Uyên,  tổng Nội Duệ, Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh..

2.Đình Ném Thượng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Tổng số: 2

III./ HUYỆN LƯƠNG TÀI:

 Đình Thanh Khê, tổng Lại Thượng, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh

Tổng số: 1

Bắc Ninh có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:04

K. TỈNH HÀ TÂY

1.Đình làng Ba, tổng Mỹ Lâm, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc quận Hà Đông, Hà Nội).

2.Đình làng Ba, tổng Thịnh Đức Thượng, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc quận Hà Đông, Hà Nội).

3.Đình làng Tám, tổng Vạn Điểm, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc Hà Nội).

4.Đình Hoàng Xá, tổng Vạn Điểm, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc Hà Nội).

5.Đình Ngọc Trục, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc Hà Nội).

6.Đình Trầm Lộng, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc Hà Nội).

7.Đình Mộc Hoàn,  huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay Thuộc Hà Nội).

 Hà Tây có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:07

L. TỈNH HÀ NAM

1.Đình làng Hai, tổng Kim Bảng, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.

2.Đình Lão Cầu, xã Lam Cầu, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

3.Đình Thanh Khê, tổng Thanh Hòa, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam

4.Đình thôn Lã, xã Ô Mễ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam

5.Đình Đinh Xá,  huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam

6.Đình Ngô Khê, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

7.Đình Đặng Xá, thờ 2 vị Đông Hải Đại Vương: Thành Hoàng làng Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục, thờ tại đình làng Đặng và đền thờ Đông hải Đại Vương Đoàn Thượng tại phái đông chùa

 Hà Nam có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:07

M. TỈNH QUẢNG NINH

1.Đình Đông Hải Đại Vương, thị trấn Tiên Yên, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.

2.Đình Trà Cổ,  huyện Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

3.Đình Lộ Vị, xã Thăng Long, huyện Tiên Hưng, nay là Đông Hưng, Thái Bình

4.Đền Quan Lạn, Vân Đồn, Quảng Ninh, lễ hội từ 10 - 20 /6

5.Đền Cái Bàu, trên đảo Cái Bầu, Quảng Ninh

Quảng Ninh có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:05

N. TỈNH THANH HÓA

1.Đình Núi Ngọc, Đồng Đội, xã Ngọc Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

2.Đình Thượng Đình, xã Quảng Định, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

3.Đình Đồng Nội, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.          

Thanh Hóa có tổng số đình, đền miếu thờ Đông Hải Đại vương ĐoànThượng:03

(Nguyên bản bằng tiếng Hán- bản tạm dịch)

Đại Vương huý Thượng họ Đoàn.

Cha Ngài là Đoàn Trung, một Hào trưởng có thế lực và uy tín trong vùng.

Mẹ ngài là Lý thị, người họ hàng gần gũi với Hoàng tộc đương triều.

Quê Ngài: làng Thung Đô, huyện Gia Lộc, Châu Hồng.

Ngài sinh ngày 12 tháng 8 năm Trinh Phù thứ sáu, đời Lý Cao Tông.

Tương truyền:

Cuối mùa đông năm Canh Tí, Lý thị mơ thấy mình bắt được Giao Long bên bờ Đông Hải.

Giữa tiết thu năm Tân Sửu, Phu nhân sinh hạ một nam nhi hình dung tướng mạo phi phàm.

Để chăm sóc con trai, bà mẹ tìm một người thân làm vú.

Vì yêu thương quý tử, người cha chọn ngay chữ Thượng đặt tên.

Tháng bảy năm Giáp Dần(1194)

Đàm Nguyên Phi sinh hạ Thái Tử. Trong ngày vui lớn,

nhà Vua mở tiệc ăn khao, nhân đó mở kho ban thưởng.

Đoàn Hào Trưởng thượng kinh chúc phúc, sẵn mối thân tình,

Lý thị tiến dâng người Vú, để vì chăm sóc Hoàng Nam.

Ngài càng lớn:

Tư chất càng thông minh sắc sảo.

Thể trạng thêm cường tráng to cao.

Phũ phàng thay:

Mười lăm tuổi, người mẹ hiền từ lâm trọng bệnh đã đứt gánh quy tiên.

Bốn năm sau, người cha tôn kính cũng về cùng Tiên Tổ.

Niềm đau thương con trẻ mất mẹ cha chưa mấy nguôi ngoai.

Chí lập nghiệp nam nhi thời ly loạn đã dần nhen nhóm.

Thế nên Ngài:

Tạm biệt gia hương, đi khắp chốn thôn quê tầm sư học đạo.

Đến làng Đinh Xá, gặp gỡ người thục nữ hạnh kết lương duyên.

Khởi đầu sự nghiệp:

Triều đình mở khoa thi Tam Giáo, Ngài lên kinh ứng thí đỗ Mậu Tài.

Nhà Vua cần kẻ tín canh phòng, Ngài được chọn vào làm quan Trung Thị.

Sớm tối mang gươm, thừa thượng lệnh bảo vệ ngai vàng.

Ngày ngày chứng kiến chốn quan trường bất công ngang trái.

Thế nhưng Ngài:

Vẫn ghi tạc lời cha: Mấy đời họ Đoàn hưởng ơn mưa móc

Nên hết lòng mẫn cán, phò tá Lý Triều, vì nước tận trung.

Cũng nhờ:

Võ công xuất chúng, kiến thức rộng sâu.

Uy tín vang xa, Hoàng gia tin tưởng.

Thuộc cấp tôn phò, đồng liêu kính phục.

Trong khi ấy:

Ngoài dân gian, lũ giặc cướp hoành hành khắp chốn,

thêm hoạ dịch bệnh thiên tai.

Cả dân chúng lầm than đói khổ, kêu chẳng thấu trời.

Trong Hoàng cung, Vua Cao Tông mê mải rong chơi,

chỉ lo xây lầu dựng gác.

Bọn gian thần mọt nước hại dân, lạm hành chính sự.

Năm Đinh Mão (1207)

Ngài lĩnh chiếu Vua truyền:

Ra trọng trấn Châu Hồng, vì dân dẹp yên giặc giã.

Quyết kéo cờ nghĩa cử, vì Vua vững dạ trung thành.

Khắp Châu Hồng:

Đám bất lương nghe danh khiếp vía.

Người dân cày, dựa thế chở che.

Trong Cung Cấm:

Bọn nịnh thần sàm tấu vu oan.

Người trong trướng hồ đồ giáng tội.

Đoàn Hồng Chủ về kinh ung dung tự tại.

Xin được gặp nhà Vua, mong gan ruột giãi bày.

Lũ nghịch thần sắp sẵn kế độc, mưu hay

Bắt Ngài bỏ y quan, định tống vào ngục thất.

Ngài trừng mắt nhìn quân hiểm ác, tức giận gồng mình,

làm hơn chục vòng dây trói đứt phăng.

Ngài chậm rãi cúi nhặt thanh gươm, mình trần dấn bước,

trước bầy đao phủ run rẩy mặt xanh.

Tiến thẳng hướng Hồng Châu.

Oai phong như Thiên Tướng.

Thế rồi:

Mượn lệnh Triều đình, bốn đạo quân dự đánh Hồng Châu, định ăn tươi nuốt sống.

Nhờ Quan Phụng Ngự, may lời tấu lọt tai Chúa Thượng mà thoát nạn can qua.

Năm Kỷ Tỵ (1209) Kinh sư có biến:

Quan Thượng phẩm Phạm Du đưa Cao Tông lên lánh nạn vùng Quy Hoá.

Người thuyền chài Trần Lý đón Thái Tử xuống nương náu phủ Thiên Trường.

Họ Trần từ đây dấy nghiệp.

Nhà Lý đến độ suy vong.

Tự Khánh mang quân vây Cung Cấm, cùng Trung Từ khuấy đảo áp chế Triều đình.

Phạm Du nhận uỷ thác của Cao Tông, hẹn Hồng Chủ về kinh phò Vua dẹp giặc.

Bởi tư thông nữ sắc quá đà, Quan Phụng Ngự thiệt thân bỏ mạng, đại sự tiêu tan.

Chờ mật chiếu chong chong không thấy, Tướng Hồng Châu thu kiếm lui binh cơ đồ bỏ lỡ.

Năm Canh Ngọ (1210)

Lý Cao Tông lâm bệnh băng hà.

Thái Tử Sảm thụ phong kế vị.

Chốn Kinh Sư, Tô Trung Từ thao túng Tân Vương.

Ngoài châu huyện, Trần Tự Khánh tranh giành ngôi Bá.

Đoàn Tướng Quân, đánh ải Quảng Điềm, bắt sống Nguyễn Đường, Lại Linh thua chạy.

Thuận Lưu Bá lòng đầy tức giận, phá đê Khoái Lộ, thôn ấp ngập băng.

Thất đức bất nhân, dân Hồng oán hận.

Tại hương Phù Đổng:

Nguyễn Nộn bắt được kim ngân không nộp, đắc tội với Triều đình.

Chương Thành xin cho xá tội phạm nhân, nhận làm thuộc tướng.

Đáo công, chuộc tội, nhận lệnh đánh dẹp khắp nơi.

Mắc nợ hàm ơn, cam tâm làm thân công bộc.

Bởi họ Trần mưu chiếm đoạt Vương quyền.

Nên Nguyễn Nộn bỏ Trần phù Lý Chúa.

Tại cõi Hồng Châu:

Lý Huệ Tông hạ chiếu sắc phong Đoàn Thượng thụ tước Hồng Hầu.

Hồng Hầu Chủ về kinh, bảo vệ Triều đình, đề phòng Tự Khánh.

Ngài có công hộ giá, được gia phong Vương tước.

Tuy nhiên:

Cột đá giữa sóng cồn, không ngăn được dòng thác dữ

Cây cứng trong giông tố khó chặn nổi ngọn cuồng phong

Thế cho nên:

Huệ Tông bị ép xuống tóc đi tu chùa Chân Giáo.

Chiêu Thánh ngây thơ, nhường ngôi báu cho chồng.

Nhà Trần tuy chiếm được ngai vàng,

nhưng còn đó lưỡng tướng Nguyễn, Đoàn giương cờ phù Lý.

Thủ Độ đã mang quân quyết diệt,

vẫn chịu thua hai châu Hồng, Bắc chĩa giáo cự Trần.

Năm Mậu Tý (1228):

Hai chủ soái cựu thần, hẹn gặp nhau ở Đồng Đao thảo bàn Minh Thệ.

Thái sư Trần Thủ Độ, ngầm giao ước cùng Nguyễn Nộn mưu hại Hồng Châu.

Đúng là:

Mệnh trời khó tránh. Thế sự khôn lường.

Ngài đã:

Trung nghĩa cả tin, vô tình y hẹn

Một mình một ngựa, đến xứ Đồng Đao.

Nào ngờ:

Mắc phải mưu gian, sa vào bẫy độc.

Ba bề, bốn mặt, phục sẵn tinh binh.

Mé Thiên Đức quân Nộn tràn sang.

Từ Văn Giang tướng Trần ập đến.

Trong rừng gươm giáo, hữu đột tả xung.

Một lưỡi kiếm oan, đầu lìa khỏi cổ.

Thế nhưng:

Ngài lắp trả đầu, lấy dải khăn quàng buộc lại.

Áo bào đẫm máu, quay chiến mã chạy về đông.

Đến đầu làng An Nhân, bỗng thấy ông lão áo đen khoanh tay kính cẩn:

Chỗ đất kia là huyệt, dành cho Tướng quân Trung liệt, Thượng đế chọn rồi

Ngài xuống ngựa, đầu gối lên gươm rồi hoá

Mối đùn thành mộ, linh ứng động đến trời.

Mười tám trận hùng uy, võ công lừng lẫy

Hai mươi mốt năm sự nghiệp, đạo lý vẹn tròn.

Mưu hiểm đã thành:

Thái Tông phong Nguyễn Nộn tước Hoài Đạo Vương.

Thủ Độ gả Ngoạn Thiềm cho làm thê thiếp.

Hào quang chiến thắng, vừa loé đã tan.

Tậm sự bất an, bệnh tình rồi mất.

Tuy thắng trận, nhưng danh hoen truyền vạn kiếp

Dẫu đầu rơi, vẫn gương sáng tụng ngàn thu.

Khắp Hồng Châu làng xã, hơn bảy mươi miếu đình,

hương khói mãi phụng thờ.

Bao Vương đế hậu triều, bấy đạo chỉ sắc phong:

Thượng đẳng Thần Đông Hải

Anh hùng trung tín, dẫu chết vẫn như còn

Đông Hải Đại Vương, danh Thần thiêng vạn thế

Vũ Trình Tường

Lễ hội đình Đinh

Đình Đinh thuộc thôn Đinh, xã Đinh Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam.

Đình Đinh thờ Đông Hải đại vương Đoàn Thượng cùng con ông là Đông Xưng đại vương Đoàn Văn, các trung thần của triều Lý, Đông Bảng đại vương triều Lê cùng các vị tiên hiền, các vị có công lập làng.

Tương truyền, làng Đinh là nơi mà Đoàn Thượng đại vương đến tìm thầy học và cũng là quê vợ của ông. Khi ông mất, con trai ông là Đoàn Văn cùng nhân dân Đinh Xá lập đền thờ. Hàng năm, cứ vào ngày sinh của Đông Hải đại vương Đoàn Thượng (10 tháng Giêng âm lịch), làng Đinh lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ bậc trung thần.

Lễ hội được tổ chức từ ngày 9 – 12 tháng Giêng âm lịch. Ngoài tế lễ, dâng hương, lễ hội làng Đinh còn có lễ rước nước và lễ khai độc.

Cứ 3 năm một lần, làng Đinh và làng Thủy Cơ (xã Châu Sơn, Duy Tiên) lại tổ chức lễ rước nước để tưởng niệm vị Đông Hải đại vương và để thể hiện mối giao hảo giữa hai làng. Thủy Cơ là một làng chài chuyên nghề sông nước. Làng Đinh đã dành một khu đất cho làng Thủy Cơ để một khi có người qua đời thì mai táng ở đó. Do đó, hai làng có mối quan hệ rất thân thiết. Khi vào lễ hội, làng Thủy Cơ cung cấp 5 chiếc thuyền lớn để đi rước nước.

Ngày mùng 9, đình Đinh mở cửa, dân hai làng vào lễ thánh, sau đó rước kiệu, cờ, bát biểu, chiêng trống, đội bát âm cùng đội bơi chải xuống thuyền. Trên thuyền có hai chóe sành được mang theo để đựng nước. Đoàn thuyền bơi đến ngã ba sông Móng, bơi rước 3 vòng, sau đó lấy nước đựng vào chóe, dâng lên kiệu rồi bơi thuyền trở về đình. Chóe nước được đưa vào đình để hôm sau tế lễ. Đội hình tế là tế nam, có chủ tế, xướng tế và bồi tế. Khi tế, đội hình tiến từ sân đình qua tiền đường, vào hậu cung. Trong khi tế, ngoài sân đình có múa rồng, sư tử, đánh gậy, thổi cơm thi, bắt chạch, trên sông Châu thì tổ chức bơi chải.

Hàng năm cũng vào dịp lễ hội mùng 10 tháng Giêng, ở đình có tổ chức lễ khai đọc (mang sắc phong ra đọc dịp dầu năm mới) do hàng xã chủ trì. Chủ tế là chánh tiên chỉ, các tiên chỉ làng là bồi tế.

Trước khi vào ngày lẽ, tối mùng 9 có rước sắc từ nhà tiên chỉ ra đình rồi làm lễ khai độc.

Ngày màng 10, tổ chức rước hành ngơi (đi chơi trên đường) có kiệu, có cờ quạt, bát biểu…

Ngày 11, sau khi tế tạ xong, rước lộ nhang sắc và các sắc phong về nhà tiên chỉ, đóng cửa đình.


Dưới đây xin giới thiệu toàn văn bài Văn tế Đức Đoàn Thượng - Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần//


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG LÀNG CAO XÁ - DŨNG TIẾN - THƯỜNG TÍN - HÀ NỘI

VĂN TẾ

Đức Đoàn Thượng - Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần

Duy: Duyên nay tại nước Cộng Hòa Xã Hội Nghĩa Việt Nam, thành phố Hà Nội, huyện Thường Tín, xã Dũng Tiến, Thôn Cao Xá.

Chúng con là: Thái ông lão bà, nam phụ lão ấu, cấp ủy chính quyền, cơ quan đoàn thể, nhân dân Phật tử, thiện tín xa gần:

gặp tiết thu sang, ngày 12 tháng 8 - húy nhật đức Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương thượng đẳng thần,

thành tâm sắm sửa trai duyên:

"Cẩn dĩ chi nghi, Cung trần phỉ lễ, Hương đăng phù tửu, Quả phẩm kim ngân, Trai bàn hoa quả

Kính cẩn tấu dâng

Vọng tưởng bậc thần minh xưa:

Đức Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương thượng đẳng thần

Là tinh tú trời đất

do linh khí núi sông hội tụ mà thành

Bởi nhật nguyệt chiếu minh nên có.

Ở trong ba quân: đánh Đông dẹp Bắc, phù nước giúp vua yên xã tắc.

Bên ngoài trận mạc: xông pha, gan dạ kiên cường,

bất khuất hiên ngang, khiến kẻ thù bao phen khiếp đảm.

Gặp thời vua nguy khốn phò trì,

Vào thế nước yếu yểm trợ.

Có công giữ nước đứng đầu,

quyền hạn đảm đương muôn dặm.

Khiến miền đông yên, vùng tây lặng,

sức giữ yên đất tổ, tiếng tăm mấy ai bằng?

Khi "còn" hiển vinh danh tướng

Lúc thác anh linh đẳng thần.

Nhớ thủa xưa:

Tiết Tân sửu - đất Thung Đô sinh trang tuấn kiệt,

Mộng Giao long - bờ Đông Hải đón giấc mơ vàng.

Gia Lộc Châu Hồng còn ấn tích bậc hiền nhân,

Đoàn Trung, Lý Thị mới phúc sinh người con thảo

Tính Đoàn

Danh Thượng

Cùng Huệ Tông đồng nhũ, khác thế thử viên âm.

Mười lăm tuổi: đất đã nuôi tình mẫu tử,

Bốn năm thêm: trời chợt đón bậc cha hiền.

Côi cút mùa thu hoa vàng nắng hạ,

Nhẹ nhàng hương lá mây điểm sương đông.

Đi viễn sứ tha phương tầm sư học đạo,

Lại tích bồ kinh lịch thỉnh ý hiền nhân.

Tam giáo khoa đầu đủng đỉnh lời thơ xem chữ Mậu Tài,

Một mùa ứng thí thảnh thơi câu hát sắc ban "Trung Thị".

Dốc lòng phù vua giúp nước

Nhất mực hộ quốc an dân.

Trận Châu Hồng - vang tên danh tướng,

Ải Quảng Điềm - bắt sống Nguyễn Đường.

Họ Trần giấy nghiệp,

Nhà Lý suy vong,

Cao Tông băng hà,

Tử Sảm lên ngôi.

Đất kinh sư, Trung Từ thao túng Tân vương,.

Vùng châu huyện, Tự Khánh tranh dành ngôi bá.

Trọng câu trung tín,

Cảm đức hiếu dân,

Huệ Tông sắc chiếu ban "Vương" Đoàn Thượng hai chữ "Hồng Hầu

Đông Hải cảm dung giấy nghĩa tín trung một lòng ái quốc.

Nhưng:

Cột đá giữa sóng cồn, nào ngăn được dòng thác giữ

Cây cứng ngoài bão giông, khó trống nổi trận cuồng phong.

Huệ Tông về Chân Giáo,

Chiêu Thánh chút Hoàng y.

An Nhân nghe đất mẹ

Tiết khi nhẹ huyền vi.

Mười tám trận uy hùng, võ công lừng lẫy,

Hai mốt năm sự nghiệp, đạo lý vẹn tròn.

Bẩy hai làng tôn thờ phong Thánh,

Muôn thủa sau kính ngưỡng ghi ân.

Quả xứng danh:

Anh liệt chinh khí quân

Các thời đều phong thần minh hộ quốc.

Đình Cao Xá nay vẫn còn lưu thần tích đấng trung quân:

Niên hiệu Thiệu Trị Ban: Kiến Nghĩa Bỉnh Chung Phù Chính Phi Anh Thượng Đẳng Thần.

Tự Đức sắc: Thượng Đẳng Phúc Thần.

Đồng Khánh phong: Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần.

Khải Định tặng: 'Kiến Nghĩa Bỉnh Chung Phù Chính Phi Anh Hiển Liệt Trác Vĩ Dực Bảo Trung hưng Đông Hải Đoàn Thượng Đẳng Thần.

Cuộc đời Ngài:

Sáng gương thiên cổ

Đẹp ý tiền nhân

Vạn thế lưu danh

Muôn đời tưởng nhớ

Anh liệt khí quân

Trung ngôn hộ quốc

Hết sức phù vua

Tận tâm trợ quốc.

Thế mới biết:

Ngọc quý nhuận khiết

Tùng biểu tuế hàn

Cỏ cây thương vì tính ôn cung

Nước non thấu tấm lòng thanh bạch.

Nhân duyên hòa hợp:

Cao Xá có bậc thần minh linh ứng,

Đình tiền đón đức Đông Hải hóa thân.

Trượng phép màu dân yên nước thịnh,

Vun cội đạo nhà đẹp xóm thôn.

Hơn bẩy trăm năm gia trì

Cùng muôn thủa ủng hộ

Cây tranh có chuyển

Bến vét lại về

Khúc sông quê, Cao Xá làng trên xóm dưới luôn thường có bậc thần anh linh ngầm tế độ.

Ngôi Đình mới, Đại Vương từ cổ chí kim vẫn thấy gương Người trung tiết nghĩa sáng soi dường.

Khiến người người hạnh phúc, thôn xóm thuận hòa, nhà nhà vui đạo đức.

Nhờ vậy nên:

Cao Xá nay đổi mới,

Xóm làng dần thay da,

Đời sống đi lên,

Nhân dân no ấm,

Đón làng văn hóa,

Giữ được nếp xưa,

Người người hướng đạo,

Nhà nhà an vui.

Nay tiết thu sang, gặp ngày húy kị

Đệ tử chúng đẳng cúi đầu đỉnh lễ Đức Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần

Ngưỡng mong:

Công đức giáng lâm,

Lưu phúc lưu ân,

Bảo hộ toàn dân,

An khang thịnh vượng,

Tiền niên chư vị tôn tồn,

Thường hằng linh ứng,

Hòa cốc phong đăng,

Nhân khang vật thịnh,

Bách phúc nghinh lai,

Tứ thời vô tai ách,

Bát tiết được thanh lương,

Xuân sinh hạ trưởng,

Thu toại đông thành,

Bình an cát khánh,

Mưa thuận gió hòa,

Mùa màng tươi tốt,

Thế giới hòa bình,

Nhân dân an lạc.

Lại phù trì cho:

Việc chùa được tốt tươi,

Việc đình được thuận lợi;

Cho đến nhân dân thuận hòa,

Người người hướng về gốc đạo.

Toàn dân kính nguyện chư vị tôn thần:

Dĩ thành kính đỉnh lễ đức Đông Hải Đại Vương,

Dĩ tín trung phụng sự Tổ quốc,

Dĩ hiếu thảo phụng sự lão thân,

Dĩ đạo đức ứng nhân sử thế,

Dĩ trí tuệ diệt bỏ vô minh,

Dĩ Phật pháp khai trừ mê ám.

Cúi đầu đỉnh lễ Thập phương Tam Thế, lịch đại tổ sư, chư vị thánh nhân, thập bát long thần, Đức Đông Hải Đại vương thùy từ chứng giám.


Cùng thời với Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng chỉ có mình Tổ được nhân dân nhiều nơi thờ phụng như thế vì Tổ được lòng dân.

            Tín nghĩa hiếu trung, sống là lương tướng, thác là phúc thần. Vùng đất Hồng Châu, Khoái Châu, Tuyên Quang, Quốc Oai, Kinh Bắc, An Bang, Sơn Nam, tên ấp tên làng các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Đông, Sơn Tây, Thái Bình, Quảng Ninh, Tuyên Quang...đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp chính nghĩa của Đoàn Đông Hải Đại Vương và các quan tướng họ Đoàn, nghĩa dân, nghĩa sĩ Hồng Châu. Cuộc chiến đấu phù Lý chống Trần suốt mấy chục năm liền của họ Đoàn ở Hồng Châu được đông đảo nhân dân các vùng rộng lớn nhiệt liệt hưởng ứng. Nếu không có sự tin theo trung thành ủng hộ của nhân dân thì cuộc chiến đấu ấy không thể tồn tại trong suốt 33 năm liền như vậy. Vì Đoàn Đông Hải Đại Vương và các quan tướng họ Đoàn biết yêu thương nhân dân, hết sức làm việc ích nước lợi dân. Tấm cuốn thư đề ba chữ “Thiên, Nhân, Sư” thể hiện quan điểm tư tưởng của các Ngài lấy con người là trung tâm, là gốc, trọng đạo học, trọng quy luật tự nhiên để phát triển sức mạnh tổng lực nhầm xây dựng và bảo vệ đất nước Đại Việt, mưu hạnh phúc cho dân. Nếu chỉ nhìn vào xu hướng cát cứ của phong trào, người ta dễ có sự đánh giá thiên lệch. Chính sử chép : cuối triều đại nhà Lý lâm vào suy thoái, chính quyền trung ương bất lực, chính trị hỗn loạn, đất nước rối ren. Bọn quan tướng trên dưới to nhỏ tham nhũng lộng hành đòi ăn hối lộ...Nạn quần hùng cát cứ, giặc cướp nổi lên khắp nơi, loạn lạc thiên tai mất mùa liên tiếp. Nhân dân gồng mình trong đói rét khổ cực khốn cùng, tha phương chết đói, lưu tán phiêu dạt mà vẫn bị đè nén bóc lột tận xương tuỷ. Kinh tế tiêu điều, đạo đức xuống cấp, xã hội rối loạn, các làng ấp suy tàn. Thế nước nghiêng ngả nguy ngập. Lúc ấy vua Cao Tông nhà Lý vẫn mải mê sa đoạ, say đắm thanh sắc, ăn chơi xa xỉ, xây cung điện trăm nóc để thưởng ngoạn, không lo chính sự, việc nước phó mặc trong tay bọn ngoại thích lộng quyền. Nhân cơ hội đó, anh em Trần Thủ Độ tuy thiếu học nhưng có thừa dã tâm tàn bạo, dùng mọi thủ đoạn nham hiểm gian giảo tranh lấy phần thắng. Trong tình cảnh ấy Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng và các quan tướng họ Đoàn lúc nào cũng nghĩ và hành động vì dân vì nước, các Tổ tìm mọi phương kế để giúp nhà Lý thoát khỏi suy vong, đưa đất nước Đại Việt phục hưng.

            Bối cảnh giai đoạn lịch sử thời Lý mạt, xu hướng cát cứ là không thể tránh khỏi, là tất yếu. Nhiều hào trưởng tập hợp nhân dân chống triều đình.

            Từ đời Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định thứ nhất năm Canh Thân (1140), bọn giặc Thân Lợi ở Giáp Động đã nổi loạn cướp phá vùng châu Thượng Nguyên, còn gọi là lộ Thượng Nguyên (Thái Nguyên). Niên hiệu Đại Định thứ 13 năm Nhân Thân (l152), bọn Nùng Khả Lai ở châu Đại Hoàng (Ninh Bình) nổi loạn. Niên hiệu Chính Long Bảo ứng thứ nhất năm Quý Mùi (1163) binh lính phản chiến. Đến đời Lý Cao Tông đã xảy ra nhiều nạn đói lớn, thảm thương nhất là vào các năm Tân Sửu (1181), Mậu Ngọ (1198), Đinh Mão (1207), Mậu Thìn (1208), số người chết đói rất nhiều. Niên hiệu Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 6 năm Tân Mùi (1191), Lê Vân nổi dậy ở Thanh Hoá chống triều đình. Niên hiệu Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 13 năm Mậu Ngọ (1198) bọn Hổ Đỗ, Ngô Công Lý nổi dậy ở Diễn Châu(Nghệ An). Niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ nhất năm Nhâm Tuất(1202), người dân miền Đại Hoàng (Ninh Bình) bị bắt làm phu xây dựng cửa Đại Thành ở kinh đô Thăng Long phải phục dịch khổ sở sinh lòng oán hận đã khởi loạn rủ nhau về nổi dạy chống triều đình. Từ niên hiệu Trị Bình Long ứng trở đi, nạn quần hùng cát cứ càng bùng ra. Bọn họ Trần làm loạn ở Hải ấp liên kết với Lại Linh, Nguyễn Đường ở Khoái Châu, với Nguyễn Nộn cát cứ ở Bắc Giang, với Nguyễn Tự, Nguyễn Cuộc ở Quốc Oai chống lại triều đình. Họ Phạm nổi dậy ở Nam Sách. Bọn Đỗ át, Đỗ Nhuế nổi dậy ở Cảo Xã (Nhật Tân, Hà Nội), Đỗ Bị nổi dậy ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây). Bọn Phí Lang lại nổi dậy ở Đại Hoàng (Ninh Bình), bọn Nguyễn Bát nổi dạy ở Ô Kim (Hoài Đức), cha con Hà Cao nổi dậy ở Quy Hoá (Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang), Đỗ Năng Tế hào trưởng hương Bình Hợp (Phúc Thọ, Hà Tây) cũng phản lại vua Lý Huệ Tông Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng giữ Hồng Châu đã cùng các quan tướng họ Đoàn lãnh đạo quân dân chiến đấu chống các thế lực cát cứ và chế độ chính trị đã hủ bại. Sử sách còn chép về những chiến công của hơn tám mươi trận, ít nhất đã có 18 trận đánh ác liệt nổi tiếng hùng uy thiên cổ của Đoàn Đông Hải Đại Vương và các quan tướng họ Đoàn với các cánh quân của họ Trần (Hải ấp), của Nguyễn Nộn...

            Đức thánh Đoàn Đông Hải Đại Vương cùng các quan tướng họ Đoàn cũng đã từng tấn công vào chế độ chính trị mục nát trì trệ hủ bại, nhằm tạo dựng sự thống nhất mới hoàn chỉnh hơn để đưa đất nước phát triển, nhân dân no ấm. Các Tổ họ Đoàn phù nhà Lý là muốn làm cho quốc gia Đại Việt được phục hưng.

            Sách “Kiến Văn tiếu lục”, nhà bác học Việt Nam thời Lê Trung Hưng - Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã viết: “ Xã Yên Nhân có miếu thượng đắng thần thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, trung thần nhà Lý rất anh linh. Đức Thánh ông là người cùng nhũ mẫu với vua Huệ Tông nhà Lý. Thấy họ Trần nắm hết chính quyền trong nước, ngôi vua nhà Lý sắp mất, Đức Thánh ông bèn chiếm cứ Hồng Châu lo toan việc hưng phục lại nhà Lý. Việc này đã trải qua nhiều trăm năm mà khí phách chính nghĩa vẫn ngời ngời như lúc sống, sử nhà Trần cho Đức ông là bầy tôi bạn nghịch, chép như thế không đúng với sự thực”.

            Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, chép: “Đền chính thờ thượng đẳng thần Đông Hải Đại Vương ở xã Yên Nhân, huyện Đường Hào. Thần họ Đoàn tên là Thượng, người xã Xuân Độ, huyện Gia Phúc (Thung Độ, Gia Lộc). Nhà Lý suy yếu bị họ Trần ức hiếp. Ngài Đoàn Thượng giữ nghĩa lớn không thần phục nhà Trần, đắp luỹ Yên Nhân ở Hồng Châu, đánh nhau với nhà Trần bị chết trận, người địa phương lập đền thờ ở xã Bái Giang, huyện cẩm Giàng và xã Đông Am, huyện Vĩnh Bảo v.v... cũng có đền thờ...”. “Luỹ cũ Yên Nhân, huyện Đường ào do Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng đắp trong khi chiếm cứ Hồng Châu cuối triều Lý, nền cũ vẫn còn.”

            Trong sách “Văn hoá học đại cương và Cơ sở văn hoá Việt Nam”, Đại học Quốc gia Hà Nội - NXB Khoa học Xã hội xuất bản năm 1996 giáo sư sử học Trần Quốc Vượng chép: “ Trong thế giới tâm linh, nếu xứ Đoài có Đức thánh Tản - Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh), xứ Bắc có Đức Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), xứ Nam có Đức thánh Phù - Đông An Chử Đồng Tử rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng với hàng nghìn đình đền miếu nghè phủ thờ từ Bần Yên Nhân theo đường 5 đến Hải Phòng và nhiều tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ...Qua nghiên cứu điền dã dân tục sử còn được biết nguyên lai những đình đền miếu thờ Cá Ông Voi hay Cá Ông với lễ hội cầu ngư của ngư dân và cư dân ven biển nước ta. Sau thời Lý sang Trần thì thần Đông Hải (Hải Đông Long Hải Thần Vương, Nam Llải Thần Vương, Đông Hải Long Lân Tôn Thần) - Cá Ông đã được tôn vinh, nhân cách hoá và hoá thân vào một danh nhân lịch sử có thật. Đó là Thái sư Tể tướng, Phụ quốc Thái uý Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, người có trí có lực mạnh nhất đương thời đã làm nghiêng ngửa lịch sử cuối Lý đầu Trần, để giữ đạo lý tam cương ngũ thường trung thần triều Lý.  

            Tấm lòng yêu nước thương dân, trung nghĩa, nhân đức, trí dũng của Tổ Đoàn Đông Hải Đại Vương tỏ rõ Tổ là bậc đại thánh, oai phong linh ứng sát phạt quan quân nhà Trần, nhân dân ngưỡng mộ. Sau khi Tổ Đoàn Thượng hiển thánh 2 năm, vào niên hiệu Thiên ứng Chính Bình thứ 9 năm Canh Tý (1240), Trần Thái Tông đã phải lập sắc phong tặng thánh hiệu :"ông Hải Đại Vương trung dũng thượng đẳng thần”, lập miếu thờ tại xã Yên Nhân. Vua Trần còn gia phong Tổ là : " Thượng đẳng khuyến thiện từ bi quy Phật”, phúng kính tiền bạc, chiếu chỉ cho cả nước thờ cúng. Dân các xã cúng bằng cỗ chay.

            Trần Nhân Tông sau khi đi tu ở chùa Yên Tử, pháp danh là Thích Huệ Quang Trúc Lâm thiền sư, có một ngày đến viếng lễ Đức thánh Đoàn tại đền Yên Nhân, thấy oai phong tỏ rõ linh ứng đã khen thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng linh thiêng. Đêm ấy, Điều Ngự (Trần Nhân Tông) làm lễ, niệm Phật, tụng kinh sám hối, nhân quả cầu xin Đoàn Đông Hải Đại Vương xá tội cho nhà Trần, ngày hôm sau thiền sư Thích Huệ Quang (Trần Nhân Tông) mới về triều. Vua Trần lại gia tặng sắc phong thần là : " Trung dũng tướng quân Đông Hải Đại Vương linh úng thượng thượng đẳng thần", sai khắc bia ghi công đức, tô tượng Đoàn Đông Hải Đại Vương. Nhà vua còn kính phúng tặng câu đối treo ở hàng cột trước nhà đại bái đền Yên Nhân :

Nhất thiên chính khí sơn hà tại,

Vạn cổ anh thanh thảo mộc tri.

Dịch nghĩa :

Khí phách chính nghĩa một thời còn mãi với non sông

Tiếng thơm người anh hùng muôn đời đến cỏ cây cũng biết.

            Đầu thế kỷ 15, Bình Định vương Lê Lợi đi đánh giặc Minh, trẩy quân qua đền Gia Viên, đền Yên Nhân, đích thân vào lễ cầu khấn đã được Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng báo mộng âm phù thắng giặc. Sau khi bình Ngô đại thắng, việc thiên hạ vừa ổn định, vua Lê Thái Tổ tặng sắc phong “Đông Hải Linh ứng Đại Vương thượng đẳng thần", rồi lại gia phong " Đông Hải Linh ứng Đại Vương hộ quốc phù tộ an dân thượng đẳng thần" (phù tộ : phúc lành đem cho dân). Truyền sai đình thần rước sắc phong về đền Yên Nhân, đền Gia Viên, đền Định Công tế lễ theo nghi thức nhà nước.. Nhà vua còn cấp một trăm thỏi đồng tốt để đúc tiền làm kinh phí sửa chữa cung đền.

            Quân sư Nguyễn Trãi theo Bình Định vương Lê Lợi đem quân vây hãm giặc Minh ở thành Đông Quan (Hà Nội), đêm 16 đi qua làng Định Công (Thanh Trì, Hà Nội). Nguyễn tiên sinh gặp các bô lão hỏi sự tích thần thành hoàng làng. Nghe xong, truyền xin mở cửa đình rồi Nguyễn tiên sinh và các quan tướng dâng hương cầu khấn : uLạy Ngài linh thiêng, cầu Ngài trợ giúp quân ta thắng trận, trừ tai giải ách cho chúng dân". Khấn xong mọi người thấy Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng hiển linh báo âm phù, hào quang toả sáng rực rỡ từ ngoài vào đình, không đánh mà trống rung, không gió mà cờ mở tung bay. Quân sư Nguyễn Trãi cảm kích đọc cho viết câu đối:

Nam quốc sơn hà do tráng sĩ,

Lý triều quý thế hiển trung linh.

Dịch nghĩa :

Sông núi nước Nam nhờ có người tài giỏi mà vững bền

Ngài là bậc trung nghĩa ở triều Lý còn hiến linh mãi mãi.

            Dân làng Định Công còn đem thanh bảo kiếm của Đức thánh Đoàn lưu giữ ở điện thờ tặng vua Lê Thái Tổ đánh giặc. Vua Lê Thái Tổ còn gia tặng mỹ tự : "Anh liệt chỉnh khí, tráng sĩ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng thượng thượng đẳng phúc thần".

            Niên hiệu Hồng Đức thứ hai năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh Tông ngự giá thân chinh đem quân đi dẹp Chiêm Thành cũng được đức thánh Đoàn âm phù giúp nước, sau thắng trận vua tặng sắc phong “Đông Hải Cương Nghị Đại Vương thượng thượng đắng thần".

            Niên hiệu Hồng Đức thứ tư năm Quý Tỵ (1473), vua mở lễ cầu đảo giải hạn cầu mưa Đức thánh Đoàn Đông Hải Đại Vương thì được mưa thuận gió hoà, hoa cốc phong đăng. Lê Thánh Tông đã gia tặng “Đông Hải Đại Vương Anh Uy Hiển ứng thượng thượng đẳng tối linh phúc thần". Từ đó về sau cầu đảo đều được linh nghiệm.

            Niên hiệu Dương Hoà thứ ba năm Đinh Sửu (1637), đời vua Lê Thần Tông, nước lớn đê sông Hoá có nguy cơ vỡ, khó giữ được, các quan phải đến làm lễ cầu đảo ở đền Đông Am (Vĩnh Bảo) nơi thờ đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, đã được âm phù giữ được đê thoát vỡ.

            Niên hiệu cảnh Hưng thứ 44, năm Quý Mão (1783) ngày 16 tháng 5, vua Lê Hiển Tông tặng sắc : " Thông suốt linh thiêng, ứng điềm sáng sủa, chứng giám bình yên, giúp nước giữ dân, trải khắp điều nhân, đức dày, giúp ngôi nêu cao võ bị, bày mưu giúp rập, kẻo dài khánh tiết, mở rộng điềm lành, nối lộc hiển hách, đàm ân được bảo vệ nối dõi, công lớn giúp rập, ra sức gây nền hùng mạnh, ban nghĩa tràn trề, công tích lớn lao, đức cả anh minh; đặc biệt đạt được bậc Đại Vương " Thông duệ hùng tài chiêu ứng, Đông Hải Đoàn Thượng thượng đẳng phúc thân ". "Nay sắc ".

             Vua Quang Trung tặng sắc phong: " Trác vĩ dực bảo trung hưng hộ quốc, phù tộ an dân (đem phúc lành, bảo an cho nhân dân) Chương Long Chu Thuỷ Đông Hải Đại Vương thượng thượng đẳng thần".

            Gia Long triều Nguyễn tặng sắc phong: "Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng bảo quốc hộ dân nhất đẳng thần" Niên hiệu Minh Mệnh thứ 21 năm Canh Tí (1840), hoàng đế tặng sắc phong: “Kiến nghĩa bình trung phù chỉnh Đông Hải Đại Vương hộ quốc tí dân lẫm trứ linh ứng thượng thượng đẳng phúc thần".

            Niên hiệu Thiệu Trị thứ 6, ngày mồng 9 tháng 9 năm Bính Ngọ (1846), hoàng đế tặng sắc phong: “Kiến nghĩa binh trung phù chính Đông Hải Đại Vương hộ quốc an dân lẫm trứ linh ứng phỉ anh thượng thượng đẳng thần, lễ long đăng trật tứ kim phi ưng cảnh mệnh miến niệm, chuẩn y cựu phụng sự". Một tháng sau vào ngày mồng 9 tháng 10 năm Bính Ngọ lại gia tặng thêm hai chữ mỹ tự "Hiển liệt".

            Các niên hiệu Tự Đức thứ 3 (ngày 17 tháng Chạp năm Canh Tuất 1850), niên hiệu Tự Đức thứ 6 (ngày 24 tháng 9 năm Quý Sửu 1853), niên hiệu Tự Đức thứ 33 (ngày 24 tháng 11 năm Canh Thìn 1880) hoàng đế tặng sắc phong: "Dũng quyết hoằng thí quảng tế hàm chương bỉnh chỉnh, hộ quốc tí dân lẫm trứ linh ứng tứ kim phi ưng cảnh mệnh miến niệm, trác vĩ dực bảo trung hưng Đông Hải Đại Vưong thượng đẳng thần. Bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, chuẩn y cựu phụng sự dụng chi quốc khánh nhi thân tự điển".

            Niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 ngày 1 tháng 7 năm Bính Tuất (1886), Nguyễn triều Đồng Khánh hoàng đế sắc phong: “ Lý triều, quốc sự hiến thánh Dực vũ đại nguyên soái, Thái sư Tể tướng, Phụ quốc Thái uý, Tổng đốc tiết chế binh sự, Binh bộ thượng thư, Tham nghị đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô thống, Đông Hải bản lộ trấn thủ, Đốc bộ Sơn Nam, Đốc bộ ân Thi, linh thắng hùng sơn, trung dũng bảo quốc hộ dân, phù tộ an dân, cương nghị anh uy hiển ứng, âm phù quốc vận, trợ tán hoàng gia huệ trạch, hộ quốc tí dân, chương long chu thuỷ, anh liệt chính khí, kiến nghĩa bỉnh trung phù chính trừ tà khử bạo, phỉ anh hiển liệt. Dũng quyết hoằng thí quảng tế hàm chương bỉnh chính trác vĩ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng thượng đẳng thần, hướng lai hộ quốc tí dân nhẫm trứ linh ứng tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự, tứ kim phi ung cảnh mệnh miến niệm thần hưu khả gia tặng Dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Nhưng chuẩn hứa chư đình từ miếu phủ đồng tế y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân, khâm tai!

            Đồng Khánh nhị niên, thất nguyệt, sơ nhất nhật"

            Niên hiệu Duy Tân thứ 3 ngày 11 tháng 8 năm Kỷ Dậu (1909) Nguyễn triều Duy Tân hoàng đế sắc chỉ chư đình từ miếu phủ, tòng tiền phụng sự : "Lý triều quốc sự hiển thánh Dực vũ đại nguyên suý, Thái sư Tể tướng, Phụ quốc Thái úy, Tổng đốc tiết chế binh sự, Binh bộ thượng thư, Tham nghị đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô thống, Đông Hải bản lộ trấn thủ, Đốc bộ Sơn Nam, Đốc bộ ấn Thi Khoái Châu, linh thắng hùng sơn, trung dũng, bảo quốc hộ dân, phù tộ an dân, cương nghị anh uy hiển ứng, âm phù quốc vận, trợ tán hoàng gia huệ trạch, hộ quốc tí dân, chương long chu thuỷ, anh liệt chính khí, kiến nghĩa bỉnh trung phù chính, trừ tà khử bạo, phỉ anh hiển liệt. Dũng quyết hoàng thí quảng tế hàm chương bỉnh chính trác vĩ dực bảo trung hưng Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, thượng đẳng thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. 

            Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ, kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự dụng chi quốc khánh nhi thân tự điển, khâm tai!

            Duy Tân tam niên, bát nguyệt, thập nhất nhật.

            Niên hiệu Khải Định thứ 9 ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tí (1924) Nguyễn triều Khải Định hoàng đế sắc chỉ chư đình từ miếu phủ đồng tế tòng tiền phụng sự, nguyên tặng Lý triều triều quốc sự hiển thánh Dực vũ đại nguyên soái, Thái sư Tể tướng, Phụ quốc Thái uý, Tổng đốc tiết chế binh sự, Binh bộ thượng thư, Tham nghị đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô thống, Đông Hải bản lộ trấn thủ, Đốc bộ Sơn Nam, Đốc bộ Ân Thi, Khoái Châu, linh thắng hùng sơn, trung dũng bảo quốc hộ dân, phù tộ an dân, cương nghị anh uy hiển ứng, âm phù quốc vận, trợ tán hoàng gia huệ trạch, hộ quốc tí dân, chương long chu thuỷ, anh liệt chính khí, kiến nghĩa bỉnh trung phù chính trừ tà khử bạo, phỉ anh hiển liệt. Dũng quyết hoằng thí, quảng tế hàm chương, bỉnh chính trác vĩ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng thượng thượng đẳng phúc thần, lẫm trứ linh ứng tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sư dụng chi quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!

            Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.

            Dịch nghĩa sắc phong của vua Khải Định và sắc phong của Bảo Đại:

            Triều Nguyễn hoàng đế Khải Định sắc chỉ ban cho các làng có đình từ miếu phủ cùng phụng thờ Lý triều quốc sự Thái sư Tế tướng, Phụ quốc Thái úy, Tổng đốc binh sự, Quốc công tiết chế, Binh bộ thượng thư, Tham nghị đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô thống, Trấn thủ bản lộ Hồng Châu-Đông Hải, Đốc bộ Sơn Nam, Đốc bộ Ân thi, Khoái Châu, đã từng có công giúp nước cứu dân, một miền trung nghĩa, đánh giặc trừ tà, phụ chính, đem lại phúc lành cho nhân dân..., ngài nổi tiếng linh thiêng uy linh ứng nghiệm. Nguyên từ trước các triều đại đã phong tặng nhiều mỹ tự. Nay gặp tuần đại khánh Trẫm bốn mươi tuổi, ban chiếu báo ơn sâu lễ thăng lên bậc, sắc phong thượng thượng đẳng phúc thân âm phù giúp đỡ bảo vệ sự nghiệp trung hưng đất nước, chuẩn cho các làng xã cùng phụng thờ tế lễ như lệ cũ theo sách của triều đình đã ghi những nơi thờ tự. Tôn thần sẽ giúp bảo vệ nhân dân ta. Hãy kính nghe theo sắc.

            Khải Định năm thứ 9 ngày 25 tháng 7 năm Giáp Tí (1924)

            Niên hiệu Bảo Đại thứ 9 ngày 21 tháng 3 năm Giáp Tuất (1934) tặng sắc phong: “Kinh đô Phụ quốc Thái uý, Thái sư Tể tướng, Tuần sát sứ giả, Đô thống bản lộ Đông Hải Đại Vưong Đoàn Thượng, thượng thượng đẳng tối linh phúc thần.”

            * Câu đối 

            Nhiều câu đối phúng tụng công đức, lòng trung thành tín nghĩa tịnh bạch của Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng :

 Thập bát chiến hùng uy, Bắc cực Đông kinh thiên cổ,

Thiên dư từ hiển thánh, Trần tiền Lý hậu nhất nhân.

 Dịch nghĩa :

Mười tám trận lớn nổi tiếng vùng Đông và Bắc vang dội oai phong muôn đời. 

Hơn nghìn nơi thờ thánh hiển linh, cuối nhà Lý đầu nhà Trần chỉ có một Ngài.            

            Đình Do Nghi xã Tam Hưng (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng) có đôi câu đối: 

            Thánh tích cắng cổ kim, trùng đổ Hồng Châu minh chính nghĩa,

 Cương thường toàn chung thuỷ, duy trì Lý nghiệp biểu trung can. 

Dịch nghĩa:

Tiếng trong sạch suốt xưa nay lại được thấy chính nghĩa sáng soi đất Hồng Châu,

Giữ đạo cương thường trọn vẹn tấm lòng trung nghĩa tịnh bạch bảo vệ nhà Lý.

Đền Bần Yên Nhân có đôi cấu đối:

Để trụ vân đồi ba, vạn cổ cương thường tâm hữu Lý,

Tật phong tri kính thảo, nhất thân qua kính mục vô Trần.

Dịch nghĩa:

            Sóng dữ tỏ cột vững, giữ đạo cương thường muôn thủa lòng trung thành chỉ có với triều Lý.

            Gió mạnh biết cây cỏ cứng, một thân trải nguy hiểm trận mạc binh đao, dưới mắt không có nhà Trần.

            Làng Kênh Hữu xã An Hoả (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) đến nay còn dấu tích đồn xưa hầm cũ, thao trường luyện quân của Đoàn Đông Hải Đại Vương, tại đình có đôi câu đối:

Đông Hải Đại Vương giai Lý Thống,

Nam Sơn hữu miếu nhất Hồng đô.

             Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, đầu thế kỷ 18 có đôi câu đối đề tại đền Yên Nhân:

Thanh miếu tuế thời hương, năng cốc bất khai canh hoàn cục

Hồng Châu kim cổ lộ, cương thường sức khởi vãng lai nhân.

 Sách Hưng Yên địa chí chép lời dịch nghĩa như sau:

Khói hương thanh miếu ngạt ngào, trôi trăng gió cao nên nền tiết nghĩa.

Đường xứ Hồng Châu xưa nay, khách gần xa trông rõ cột cương thường.

            Đoàn tiến sĩ có ghi đôi câu đối trong Đoàn gia tộc phả kỷ để hoằng dương cống đức các quan tướng họ Đoàn thời Lý.

Cự Trần, phù Lý công tại hoàng gia danh tại sử

Quang tiền, dụ hậu, sinh vi lương tướng hoả vi thần

 Câu đối đình Trữ La (cẩm Giàng, Hải Dương):

            Hát kim kiến Đông Hải thiên trùng ba, hách hồ hữu cừu Trần nộ khí

            Linh nhân độc Nam sử đệ tam quyển, ảm nhiên tư phù Lý chiến công 

Dịch nghĩa :

Đến nay thấy muôn trùng sóng bể Đông vẫn tràn nộ khí chống họ Trần,

Khiến người đọc cuốn thứ ba của sử Nam còn nhớ chiến công giúp triều Lý.

Chung cổ chỉ cừu Trần, "mộc tử " sơn hà hiềm địa súc,

Chí kim do bạc Nộn, Đồng Đao kiếm mã hữu thiên tri.

Dịch nghĩa :

Xưa chỉ hận Trần, sông núi Lý triều hiềm đất ngắn.

Nay vẫn khinh Nộn, kiếm ngựa Đồng Đao có trời hay.        

Câu đối đình Tú La (Cẩm Giàng, Hải Dương):

Nam giao nhạc giáng thần, Hồng Lộ tinh kỳ, trực bả cương thường minh đại nghĩa,

Đông A thiên khải thánh, Đồng Đao phong vũ, cố tương danh tiết tỉ hoàn nhân.

Dịch nghĩa :

            Cõi Nam khí thiêng sinh thần, cờ biển lộ Hồng giữ vững cương thường sáng đấng đại nghĩa,         

            Họ Trần nhờ trời mở vận, mưa gió Đồng Đao nêu cao danh tiết tỏ bậc trung kiên.

            

Câu đối đình Bái Dương (Cẩm Giàng, Hải Dương):

Xướng nghĩa cự  Trần, thập bát trận hùng uy dư tướng lược,

Đồ mưu phục Lý, ức thiên thu trung nghĩa tác thần tâm.

Dịch nghĩa :

Xướng nghĩa chống Trần, mười tám trận hùng uy tỏ tài tướng giỏi

Mưu đô phục Lý, muôn ngàn năm tiết nghĩa giải lòng trung.

 Nhất lộ Hồng Châu, kiếm mã đãn tri thần tử Lý,

Thiên thu Đồng Luỹ, giang sơn bất cộng quốc quân Trần.

Dịch nghĩa:

Một dải Hồng Châu, kiếm mã mới hay thần tử Lý,

Ngàn thu Đồng Luỹ, non sông đâu chịu chúa tôi Trần.

*

Bái ấp ức niên từ, hách trạc dương thanh trung nghĩa thánh,

Đồng Đao thiên cổ tích, cương thường sức khởi cổ kim nhân.

Dịch nghĩa :

ấp Bái đền thiêng, chói lọi gương trong người trung nghĩa,

 Đồng Đao đất đẹp, treo cao đạo nghĩa bậc danh nhân.

Câu đổi đình Mao Điền (Cẩm Giang, Hải Dương):

Hồng quận tam thập niên tâm hữu Lý triều,

Đồng Đao duy nhất trận mục vô Trần thị.

Dịch nghĩa :

Hồng quận ba chục năm lòng có triều Lý,

Đồng Đao chỉ một trận, mắt không họ Trần.

Câu đối đình Kinh Uyên ( Cẩm Giàng, Hải Dương):

Nhị bách tải sơn hà, cựu quân cố quốc,

Tam thập niên cung kiếm, hiếu tử trung thần.

Dịch nghĩa :

Sông núi hai trăm năm, vua xưa nước cũ,

Cung kiếm ba mươi thu, con hiếu tôi trung.

Câu đối đình An Lộng, xã Chung Linh (Quỳnh Phụ, Thái Bình):

Nhạc độc Chung linh, dực Lý tinh trung quang sử sách,

Giáp binh An Lộng, bình Trần nghĩa khí tắc thương minh.

Dịch nghĩa:

Khí thiêng đất Chung Linh, giúp Lý lòng trung ngời sử sách,

Giáp binh nơi An Lộng, chống Trần nghĩa khí chặn tối tăm.

            (Làng An Lộng thờ 3 vị thiên thần tướng là Cao Sơn thần tướng, Hắc Sơn thần tướng. Thiên Bồng thần tướng đã giúp tướng Đoàn Thượng dẹp giặc ở Tuyên Quang (Quy Hoá) và thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.)

 

Câu đối đình An Hiệp (Quỳnh Côi, Thái Bình):

Trung nghĩa đan tâm, siêu nhiên Lý dĩ tiền, Trần dĩ hậu,

Anh hùng chính khí, lẫm hồ sơn chi Bắc, hải chi Đông.

Dịch nghĩa :

Trung nghĩa lòng son vượt trội sau Trần trước Lý,

Anh hùng chính khí, uy nghiêm núi Bắc bể Đông.

Câu đối tiếp :

Kháng Trần tiết khí Vân Trường Bắc,

Tôn Lý sơn hà Vũ Mục Nam.

Dịch nghĩa :

Chống Trần khí tiết như Quan Vân Trường đất Bắc,

Phù Lý non sông tựa Nhạc Vũ Mục trời Nam.

Câu đối đình Thượng Phúc (Quỳnh Côi, Thái Bình):

Thánh tích hiển Hồng Châu, võ lược văn mô quang Việt sử,

Thần hưu phu phúc địa, xuân đài thọ vực thiếp Đông giao.

Dịch nghĩa :

Thánh tích rạng châu Hồng, võ lược văn mô ngời sử Việt, 

Thần ân tràn đất phúc, đài xuân cõi thọ tĩnh thành Đông.

Câu đối đình Thôn Đội xã Tử Thanh (Quỳnh Côi, Thái Bình):

Phù Lý tinh trung thiên cộng bạch,

Tiễu Trần tráng chí sử lưu thanh.

Dịch nghĩa :

Giúp Lý lòng trung cùng trời sáng,

Trừ Trần chí mạnh rạng sử xanh.

 

Câu đối đình Thôn Lã xã Ô Mễ (Bình Lục, Hà Nam):

Dị tích di truyền Nam Bắc cảnh,

Anh thanh hiển hách Lý Trần gian.

Dịch nghĩa :

Tích lạ lưu truyền Nam với Bắc,

Tiếng thơm hiển hách Lý cùng Trần.

 Câu đối đình Đình Xá ( Bình Lục, Hà Nam):

Bất nhị tinh trung, Đông địa khởi chi Trần nhật nguyệt,

Nhi thất chính trực, Nam thiên nhưng thị Lý sơn xuyên,

 Dịch nghĩa :

ở chẳng hai lòng, cõi Đông há kể  Trần nhật nguyệt,

Chính trực chỉ một, trời Nam duy biết Lý giang sơn.

 

Câu đối đình Ngô Khê (Bình Lục, Hà Nam):

Huân nghiệp cửu di trưng, Lý hậu, Trần tiền thiên cổ sử,

Tinh linh cầu tất ứng, Đội sơn, Ngô thuỷ vạn niên từ.

Dịch nghĩa :

Công lớn mãi nêu gương, sau Lý trước Trần lưu sử cũ,

Anh linh cầu ắt được, sông Ngô, núi Đội vững đền thiêng.

          11 câu đối, 6 hoành phi (đại tự) đình Phùng Khoang (trại cũ Phùng Quang) xã Trung Văn, huyện Từ Liêm, Hà Nội:

 1.        Cố quốc nhất sinh tâm Lý đỉnh hà niên hư mạt tận

            Sùng từ tam đại trấn La Thành thủ địa trạc linh quang.

Dịch nghĩa :

Một tấm lòng cố quốc với triều Lý năm nào thổi lên ngọn lửa nhỏ,

Ba trấn lớn đền cao La Thành đất ấy tắm gội ánh sáng thiêng liêng.

 2.        Bát thập dư chiến hùng uy di tích nhưng hai cô luỹ tại

            Thiên bách nhị từ hiển thánh tinh thành trường đối bát lăng cao.

Dịch nghĩa :

Tám mươi trận dư để lại dấu vết oai hùng vẫn còn trơ luỹ vắng,

Nghìn trăm hai đền thực bậc hiển thánh tinh anh đối diện tám lăng cao.

 3.        Thập bát niên qua mã đông cừu tồn Lý đan tâm huyền nhật nguyệt,

Tam bách tải cương thường độc trú tiềm Tran hạo khí tắc thương minh. 

 Dịch nghĩa:

Mười tám năm binh mã báo thù, bảo tồn nhà Lý, tấm lòng son treo vầng nhật nguyệt,

Ba mươi năm cương thường chỉ chú trọng diệt họ Trần khí hạo nhiên tắc nghẽn biển xanh.

 4         Đối Việt hồn như tại 

            Huân hạnh nghiêm nhược lân.

Dịch nghĩa:

Đổi nước Việt tinh thần còn sống mãi

Hương khói cúng lễ nghiễm nhiên đến dâng.

 5.        Tồn Lý cô tâm minh thần cộng chứng

            Tiềm Trần hạo khí hậu thế di truyền.

Dịch nghĩa :

Lòng cô trung bảo tôn nhà Lý, thân minh chứng giám

Khí hạo nhiên diệt họ Trần, đời sau còn truyền.

 6.         Nhất tràng liệt liệt, oanh oanh tỉnh thành quán nhật,

            Thiên cô dương dương trạc trạc trắc giáng tại thiên.

Dịch nghĩa :

Một hồi oanh oanh liệt liệt, tinh anh thành thực, xuyên ngày tháng,

Ngàn thủa dạt dạt dào dào, khi lên lúc xuống, tại trời xanh.

 7.        Chính khí vạn niên tồn, thiên trụ địa duy dĩ lập

            Danh cao thiên cổ trọng, đông từ tây tự như sinh.

 Dịch nghĩa :

Chinh khí vạn năm đội trời đạp đất, duy mình đứng vững

Tên cao ngàn thủa đông từ, tây đền, thờ cúng như còn sống.

 8.        Sơ nhận cung tường cao ngưỡng thượng

            Thiên thu đình vũ túc chiêu như.

Dịch nghĩa :

            Vài thước tường cung ngửa cao trông ngóng,

            Nghìn thu đình vũ rọi sáng nghiêm trang.

 9.        Thiên nhật thần tâm duy hữu Lý

            Lôi phong tráng khí tức vô Trần.

Dịch nghĩa :

            Tấm lòng trung nghĩa như mặt trời, chỉ có từ đời Lý,

            Khí tiết hùng tráng tựa gió sấm, không có ở đời Trần.

 10.      Thiên hách dư linh từ, đông tỉnh tây an thiên cổ,

            Thập bát chỉnh qua mã, tiền Trần hậu Lý nhất nhân.

Dịch nghĩa :

Nghìn trăm lẻ đền thiêng, đông yên, tây tĩnh, vững vàng muôn thủa

Mười tám trận chiến chính, đầu Trần cuối Lý, chỉ có một ngài.

 11.      Lý mạt danh thần thanh trấn giang hà khâm chính khí,

            Trần sơ hiển thánh thu tinh nhạc nghiễm linh từ.

Dịch nghĩa:

            Danh thân cuối Lý, tiếng động sông ngòi kỉnh thay chính khí,

            Hiển thánh đầu Trần, sáng hút trăng sao, tôn kính đền thiêng.


 * Hoành Phi:

Thánh cung vạn tuế

(Cung thánh muôn năm) 

Tối linh từ

(Đền tối linh thiêng) 

Hách quyết thanh 

(Tiếng tăm hiển hách) 

Thạc phù Lý triều

(Giúp lớn triều Lý)

Dương thủ hạo nhiên

(Khí hạo nhiên tràn trề)

Đoàn Đại Vương

 Đông Hải Đại Vương

 Đông Hải Thần Vương

 Long Hải Thần Vương

 

Còn rất nhiều câu đối, hoành phi nêu gương biểu dương huân công danh nhân họ Đoàn cần được sưu tầm biên chép tiếp...

 

" Thiên, nhân, sư "

            Ba chữ thể hiện rõ quan điểm tư tưởng của Đức Thánh Đoàn Đông Hải Đại Vương và các quan tướng họ Đoàn là coi trọng nhân dân, dân là gốc, trọng dụng hiền tài, tôn sư trọng đạo học, năm vững thiên thời, địa lợi, nhân hoà để vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt, phục vụ nhân dân, dẹp giặc trừ cướp, chống thiên tai dịch hại, đem lại phúc lành cho mọi người. Khi các Tổ hiển thánh đã âm phù vận nước, độ trì nhân dân, giúp đỡ nhà vua, quan dân lễ bái, cầu đảo đều được ứng nghiệm phù hộ.

            Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ ơn người trồng cây, đó là đạo lý dân tộc tri ân tiền nhân mà thấy được tâm thiện đức độ khoan nhân, công ơn của Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng và các quan tướng họ Đoàn thời Lý. Các Tổ luôn lấy dân làm gốc, yêu thương nhân dân, chăm lo khoan thư sức dân, lấy quốc gia làm trọng, lấy trung hiếu làm chính, lấy tín nghĩa làm đầu, trí dũng để gánh vác việc nước. Các Tổ phất cờ phù Lý để thực hiện hoài bão cứu dân giúp nước, xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt giàu mạnh, độc lập thống nhất có kỷ cương. Các Tổ phấn đấu suốt đời cho những công trình hưng doanh ích nước lợi dân, lo cho mọi người ấm no, mọi nhà yên vui. Lòng muôn người hướng về ngưỡng mộ. Lúc các Tổ còn tại thế thì nhân dân hăng hái, tin theo, trung thành làm mọi việc thiện, còn lập sinh từ ở làng Định Công (Hà Nội) thờ sống tướng Đoàn Thượng, hoằng dương công đức. Khi Đoàn Đông Hải Đại Vương và các quan tướng họ Đoàn hiển thánh thì nhân dân nhiều nơi suy tôn là bậc đại thánh, tự nguyện góp công, góp của với tấm lòng thành kính lập đình đền nghè miếu, điện phủ phụng thờ, quanh năm hương hoả, muôn đời tế lễ theo nghi thức đại lễ Nhà nước.

Thánh hiệu:           

            Cung duy : Lý triều hiển thánh Dực vũ đại nguyên soái Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, Thái sư Tể tướng, Phụ quốc Thái uý, Quyền chưởng các đạo cấm quân, Tổng đốc tiết chế binh sự, quốc công tiết chế, Binh bộ thượng thư, Đốc bộ Sơn Nam, Ân Thi, Khoái Châu, Trấn thủ bản lộ Hồng Châu, Đông Hải, Tham nghị đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô thống. Linh thắng hùng sơn, bảo quốc hộ dân, phù tộ an dân, cương nghị anh uy hiển ứng, âm phù quốc vận trợ tán hoàng gia huệ trạch, hộ quốc tí dân, lẫm trứ linh úng, tứ kim phi ưng, cảnh mệnh miến niệm, dực thánh chương long chu thuỷ, anh liệt chính khí trung dũng, kiến nghĩa bỉnh trung phù chính trừ tà khử bạo, phỉ anh hiển liệt. Dũng quyết hoằng thí quảng tế hàm chương hoằng hợp quảng nhuận. Đông Hải phổ tế chiêu hựu hiển linh sùng vấn phù ứng, hoành nghi phù khánh, uy cảm hiệp chưng, chương liệt uyên tĩnh, đôn nghĩa hoành tín, quảng phúc tuý hưu, diễn huống sùng quốc, tích hựu phù đức, phi huệ trạch, dân diễn khánh, hậu đức chí nhân, vĩnh khúc ninh dân, dương vũ phù tộ, hộ quốc cương chính, hiển đức phong công, trực vận an dân diễn khánh, minh duệ dũng lược, nhân chiêu nghĩa lập, đức bác khuếch thông, phổ hoá tế trị, trực uy trợ thắng, hiến công khuông quốc, bảo khúc khải tường, phi tác khuông thời bật thế. Hộ quốc tí dân bảo trị, phi huống cảnh quang, hộ quốc bảo dân chí đức, vĩ văn trấn vũ, diệu linh thông minh chính trực. Dũng quyết hồng dụ, thuẫn cách anh đạt, vi nhu uy cung, đại độ hùng tài đại lược, anh nghị tràng túc, hy mục hiển công, hoành nhu diệu hoá, sùng uy tuý lộc, khuông hàm phổ bác, an dân trực chính, tuý lộc trác vĩ dục bảo trung hưng Đoàn Đông Hải Đại Vương tối linh thượng thượng đẳng phúc thần thánh tiền.


Thông tin tham khảo

Tiểu sử

Ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thìn (1184) đời Lý Cao Tông. Theo ngọc phả ở Hải Dương, ông là con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách thống nhất ghi ông người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam.

Chống lại triều đình

Đoàn Thượng trở thành hào trưởng vùng Hồng. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, ông có cùng một vú nuôi với vua Lý Cao Tông. Ông lớn lên lúc nhà Lý đã suy vi. Vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, tăng cường bóc lột dân chúng, vì thế nhân dân oán thán, nhiều nơi nổi dậy chống lại. Nhân lúc lòng dân chán nhà Lý, Đoàn Thượng cũng nổi dậy tại quê nhà vùng Hồng.

Vùng Hồng, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí [1] nói về phủ Bình Giang và Ninh Giang: “Xưa gọi là Hồng châu, cuối đời Trần chia làm châu Thượng Hồng và châu Hạ Hồng...”. Vùng Hồng gồm các huyện Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ ở phía nam tỉnh Hải Dương ngày nay.

Sử sách chép không thống nhất về thời gian Đoàn Thượng nổi lên. Các nhà nghiên cứu thống nhất lấy nguồn thông tin từ sách Đại Việt sử lược là sách được soạn vào thời nhà Trần là bộ sử cổ nhất làm căn cứ đáng tin cậy hơn cả.

Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng và Đoàn Chủ nổi dậy chống lại triều đình. Ông xây đắp thành, đắp lũy. Lý Cao Tông sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam Sách, Hải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Đoàn Thượng và Phạm Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông.

Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Du làm trái lệnh chống triều đình. Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt (Hồng Châu) cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở hợp binh làm phản triều đình, đánh Đằng Châu. Bỉnh Di bị thua.

Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết.

Tháng 3 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh Đoàn Thượng và Đoàn Chủ tại Vệ Kiều. Quân Đoàn Thượng thua trận, Đoàn Chủ bị hãm ở chỗ bùn lầy và bị tướng Hà Văn Lôi đâm chết.

Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đánh tan quân Đoàn Thượng. Tuy nhiên, trong lúc Đoàn Thượng suy yếu thì sự mê muội của vua Lý Cao Tông, tin theo gian thần Phạm Du khiến nhà Lý càng suy vi.

[sửa] Làm tôi triều đình

Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho các quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin theo; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ giết chết.

Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là bọn Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con là Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực.

Thái tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình, được thủ lĩnh địa phương là Trần Lý và Tô Trung Từ lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ, nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.

Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ,... nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với Đoàn Thượng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với ông. Khi thuyền của ông đến đón không gặp Du, bèn trở về. Khi Du lên thuyền khác đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết.

Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung.

Cao Tông chết, thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Sau một loạt biến cố, năm 1211, nhiều đại thần nhà Lý và cả Trung Từ bị giết. Cháu gọi Trung Từ bằng cậu là Trần Tự Khánh ở Hải Ấp lại mang quân về kinh, an táng Trung Từ.

Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nhân đó nói với vua Huệ Tông rằng:

Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập.

Huệ Tông tin theo, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng.

Đoàn Thượng đem quân đánh anh em họ Trần ở ải Hoàng Điểm. Trần Tự Khánh sai bộ tướng Lại Linh cùng tướng Khoái Châu là Nguyễn Đường ra chống cự. Nguyễn Đường bị bắt. Tự Khánh bị thua, giận dữ phá đê cho nước sông chảy tràn vào các ấp rồi về. Miền Khoái Châu mất tin tưởng ở họ Trần, theo về với họ Đoàn.

Tuy nhiên, Trần Tự Khánh là một tướng tài. Sau đó Tự Khánh hai lần đánh bại quân họ Đoàn của Đoàn Ma Lôi, đóng ở Đội Sơn (Duy Tiên, Hà Nam). Họ Trần kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam). Trần Tự Khánh tìm cách liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự để đối địch với Đoàn Thượng.

Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do vua Huệ Tông và thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nhanh chóng bị thua trận. Cánh quân Đoàn Thượng cử đi do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đánh bại. Lý Huệ Tông bỏ chạy lên Lạng châu, quân họ Đoàn rút khỏi kinh đô trở về vùng Hồng.

[sửa] Trở về Hồng châu

Năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết chết được Đoàn Nguyễn. Tuy nhiên lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xãSơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi đánh được họ Đoàn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về Lý Nhân (Hà Nam).

Song lực lượng họ Trần vẫn rất mạnh. Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải dựa vào họ Trần. Nhiều thế lực cát cứ lần lượt bị Trần Tự Khánh đánh dẹp. Tuy nhiên, bộ tướng của Khánh là Nguyễn Nộn lại phản họ Trần mà cát cứ ở Bắc Giang.

Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng thấy thế lực họ Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu.

Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng nhà Lý. Thủ Độ sắp đặt đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần.

Trần Thủ Độ mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp.

Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền; thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu; nhà Đường đặtHải Môn trấn, lại gọi là Hồng Châu.

Nhà Đinh chia làm đạo; nhà Tiền Lênhà Lý cũng theo như nhà Đinh.

Nhà Trần đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ

Năm Quang Thái thứ 10 (1397) vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông

Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An; nhà Lê

Năm Thuận Thiên (1428-1433) vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo

Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) vua Lê Nhân Tông chia làm 2 lộ: Nam Sách thượng và Nam Sách hạ

Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách; năm 1469, đổi làm thừa tuyên Hải Dương; năm Hồng Đứcthứ 21 (1479) đổi làm xứ

Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi làm trấn

Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh

Nhà Lê, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599) vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ

Năm Cảnh Hưng thứ 2 1741 vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão

Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn đổi thuộc vào Yên Quảng

Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và lệ thuộc vào Bắc Thành

Năm 1804, đời Vua Gia Long, lị sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền về tổng Hàn Giang, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bìnhsông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, chính vì vậy có tên gọi là Thành Đông - có nghĩa: tòa thành ở phía đông.

Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một hạt độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ 19 huyện.

Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng; đến 1906, đổi thành tỉnh Kiến An.

Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, đến năm 1997 lại tách riêng ra với tên gọi như ngày nay.

( Gia Lộc Tỉnh Hải Dương Huyện có một thị trấn Gia Lộc, 22 xã là Liên Hồng, Thống Nhất, Trùng Khánh, Yết Kiêu, Gia Hoà, Lê Lợi, Đoàn Thượng, Toàn Thắng, Hồng Hưng, Hoàng Diệu, Tân Tiến, Gia Xuyên, Gia Tân, Gia Lương, Gia Khánh, Thống Kênh, Đồng Quang, Đức Xương, Quang Minh, Nhật Tân, Phạm Trấn, Phương Hưng.)

Bài Vị :

 ĐOÀN ĐÔNG HẢI ĐẠI VƯƠNG THÁNH VỊ

(Nhiều nơi thờ bằng tượng sơn son thiếp vàng)

             Mở lễ hội đại khánh rước thánh, cầu an, cầu phúc, thượng hạ điền, tuần tiết...tuỳ theo cố lệ từng nơi. Có nhiều nơi làm giỗ thánh vào ngày sắc phong thần của nhà vua.

            Thần tích thành hoàng làng Định Công (huyện Thanh Trì, Hà Nội) nay là phường Định Công, quận Thanh Xuân chép: Phúc thần tối linh thượng đẳng, chính vị thành hoàng, tiền bối là Đông Hý Tràng Sơ Dực vũ Đại Vương, hậu duệ chi trưởng Hùng quốc vương, thuộc chi cấn. Tổ Hùng Quốc vương huý là Đoàn Lân dòng dõi họ Hồng Bàng. Kiếp trước Đức thánh Đoàn Thượng là hoàng tử con vua Hùng Nghị vương thứ 4 cuối triều đại Hùng Nghị vương thuộc chi Nhâm tức là triều đại Hùng vương thứ 17, khởi nghiệp của chi Nhâm là Bảo Quang Lang sinh năm ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời trị vì 160 năm, từ năm Quý Tị (568 TCN) đến năm Nhâm Thân (409 TCN) ngang với bên Tàu vào thời Uy Liệt vương nhà Đông Chu. Ngài là cháu bốn đời của đức Hùng Bảo Quang Lang, vị vua Hùng Nghị vương thứ nhất, đời vua đầu chi Nhâm. Ngài là em của Hùng Huệ Lang sinh năm Canh Thân (421 TCN). Huệ Lang lên ngôi khi 13 tuổi, là vua đầu triều đại Hùng Duệ Vương, chi Quý tức triều đại Hùng Vương thứ 18, truyền được 3 đời trị vì 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN). Ngài Đông Hý Tràng Sơ Đông Hải là con vua Hùng Nghị vương thứ 4 và bà Hoàng phi thứ 5 tên là Xuyến. Khi ra đời hoàng tử rất khôi ngô tuấn tú, tay dài quá gối, mu chân có 7 cái lồng dài, sau lưng có 28 nốt ruồi rồng đỏ như nhị thập bát tú tụ hội. Hùng Nghị vương thứ 4 đặt tên cho hoàng tử là Tràng Sơ. Lớn lên hoàng tử Tràng Sơ có đức, có tài kiêm văn võ, nhiều lần đánh dẹp giặc cướp biển, giúp dân an cư lạc nghiệp, được triều đình phong là Dực vũ nguyên soái đô sát đại tướng quân. Một lần, Ngài qua Sơn Nam, phủ Thường Tín, thăm chiềng kẻ Định Công mở tiệc khao dân. Dân làng cảm nghĩa đã góp công của sửa sang sinh từ tôn nghiêm thêm. Ngài còn giúp vương huynh Hùng Duệ vương thứ nhất đánh giặc bảo quốc an dân, được phong chức Dực thánh quốc vương chương long chu thuỷ đạo Hùng Lạc đại nguyên soái, phụ chính quốc tể Đông Hý hầu. Khi quân giặc xâm phạm bờ cõi nước Văn Lang, Ngài cầm quân giữ nước, quân giặc bị đánh lui. Khải hoàn về triều, Ngài hoá tại cửa biển Bích Hải (Hoằng Hoá, Thanh Hoá), thành một rồng vàng dài mười trượng, mắt sáng rực, nhào lộn giữa biển khơi rồi biến trong nước đại dương. Vua đầu triều đại Hùng vương thứ 18 thuộc chi Quý là Hùng Duệ vương thứ nhất thương tiếc, chiếu chỉ cho dân lập đền thờ ở cửa biển Bích Hải, xuân hạ thu đông quốc lễ đại tế, cho làng Định Công thờ làm thành hoàng, tặng phong thánh hiệu : Đông Hý Tràng Sơ Dực vũ Đại Vương thượng đẳng thần. Kiếp sau Ngài là Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, Thái sư Tê tướng, Thái uý triều Lý.

  Tổ Đoàn Thượng với chính thất phu nhân Lý thị sinh ra Đoàn Hưng Nhượng. Năm Canh Thìn (1220) Ngài Đoàn Hưng Nhượng làm chủ tướng giữ thành Ngọc Trục để chống Trần phù nhà Lý, Ngài theo lệnh cha lập căn cứ ở vùng đất nay là xã Đông Lỗ, huyện ứng Hoà, Hà Tây - Hà Nội đánh nhau với Trần Thủ Độ ở đầm Trằm Lông cách Ngọc Trục ba cây số, Ngài bị tử thương có đền ở Ngọc Trục và Trằm Lộng, tổng Đông Lồ, ứng Hòa, Hà Tây (Hà Nội), các triều đại đều có sắc phong thượng đẳng thần. Có ngọc phả Thần tích đầy đủ chi tiết còn lưu giữ ở nơi thờ và chép trong sách “ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng” ...

Thứ thất của ngài là Phạm Thị Đoan, người làng Gia Viên, huyện An Dương, nay là phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, TP.Hải Phòng, sinh ra Đoàn Văn và Đoàn Thị Châu. 

Tổ Đoàn Thượng với thứ thất phu nhân Phạm Thị Đoan người làng Gia Viên (chính âm Da Viên), huyện An Dương nay là đất các phường Gia Viên, Lê Lợi, Lương Khánh Thiện, cầu Đất, Phạm Hồng Thái, Máy Tơ, Hoàng Văn Thụ, Minh Khai, Quang Trung, Phan Bội Châu ở Hải Phòng. Bà sinh ra Đoàn Văn, Đoàn Thị Châu. Bà Phạm Thị Đoan được thờ làm thành hoàng làng Lạc Viên (quận Ngô Quyền, Hải Phòng) có thánh hiệu là Nam Dương đệ nhất quý nương Minh Diệu (Đình Lạc Viên thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng và Ngô vương Quyền). Năm 1938 còn giữ được 58 sắc phong các vị thần của các triều Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, triều Nguyễn. Làng Lạc Viên được tách lập từ làng Gia Viên thời xưa. Nay Lạc Viên là đất các phường Lạc Viên, Cầu Tre, Máy Chai.

 Tướng Đoàn Văn giữ chức Đô thống trấn thủ đảo Vân Đồn còn gọi là Đảo Quan (nay là huyện Vân Đồn, Quảng Ninh). Sau khi Hồng Châu thất thủ, Đoàn Văn chạy lánh nạn vào Núi Ngọc, ái Châu làng Đồng Đội, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh hóa (nay là xã Tân Dân, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá) xây đền thờ cha mẹ ở chân núi Ngọc (bị giặc Minh phá làm đồn binh chống dân ta và nghĩa quân Lê Lợi. Đoàn Văn sinh ra Đoàn Trang Tùng và Đoàn Cao Sơn. Đô thống Đoàn Văn được dân làng Đinh Xá, tổng Văn Mỹ, huyện Bình Lục, Hà Nam thờ cùng với cha là Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng tại đình làm thần Thành Hoàng.