Đức Bà Đoàn Quý Phi (1601-1661)

 Đức bà Đoàn Quý Phi (1601-1661) tên thật là Đoàn Thị Ngọc, là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Công Nhạn và bà thứ thất Võ Thị Thành.[1] Bà là vợ của Nguyễn Phước Lan, thân mẫu của Chúa Hiền - Thái Tông Nguyễn Phước Tần. Năm Gia Long thứ 5 (1806) đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu. Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh từ năm 2005. Đây là lăng mộ cổ xưa nhất thời các chúa Nguyễn ở phía Nam, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà.

Tên đất Quảng Nam xuất hiện từ năm Hồng Đức thứ 2 (tháng 6-1471, do vua Lê Thánh Tôn đặt cho dải đất vừa chinh phục được, dài đến cuối huyện Tuy Phước - Phú Yên ngày nay). “Quảng Nam thừa tuyên” có nghĩa là “đất mở rộng về phía Nam, vâng lệnh vua để tuyên dương đức hóa” (1).

Năm 1611, Nguyễn Hoàng tách vùng đất từ phía Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn (gồm các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc bây giờ) ra khỏi trấn Thuận Hóa để nhập vào trấn Quảng Nam đã có từ thời vua Lê. Đây là một quan niệm quy hoạch lãnh thổ rất hợp lý của Chúa Tiên, bởi vì đèo Hải Vân - mà Lê Thánh Tôn đã hào sảng mệnh danh là “thiên hạ đệ nhất hùng quan” - là một thực thể địa lý - lịch sử kỳ lạ của đất nước.Năm sinh của tỉnh Phú Yên

 Đến đời sau Đức Tiên chúa vào chấn đất huyện hóa và Quảng Nam đóng đồn trú quân ở xã Ái tử, lúc bấy giờ năm dương lịch 1569, Tiên tổ Đoàn Công Nhạn nối theo đó mà phò Đức chúa Tiên cùng chấn có công. Đức chúa Tiên tấu phong ông Đoàn Công Nhạn  là Tham Tướng chơn Nguyên Hầu.Kế sau đó có sắc lệnh ông Đoàn Công Nhạn kiêm chức các Châu thuộc Quảng Nam trấn đến các phủ. Lúc bấy giờ dân chúng đâu đó đều  vào theo ông làm hầu hạ và thuộc quyền kiểm soát của ông.

Đến sau ông tham tướng Đoàn Công Nhạn thiết lập một thôn ở chợ củi là Đông yên châu - Đông giáp để người con trưởng là ông khâm lý trấn ở đó 

Đến sau tham tướng Đoàn Công Nhạn có sinh một người con gái thứ 3   là Bà Đoàn Thị Ngọc tuổi vừa cập kề ước độ 20 tuổi . Nhân lúc ban đêm sáng trăng bà đi hái dâu cho tằm, trong lúc hái dâu bà có hát một câu hát 

Thiếp nghe chúa ngự thuyền rồng

Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa...

Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu

Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình...!

 ( Vua cha đi ngự thuyền rồng hay đâu phận thiếp giá chồng này chăng ).

 Trong lúc đó có xa giá Vua đến Quảng Nam có thái tử Đức chúa Thượng tức vua Hiếu Chiêu Vương theo hộ giá. Thái tử cũng thừa đêm sáng trăng ấy, kêu một chiếc ghe bơi, bơi ngang qua gò dâu ấy , trong lúc thái tử đang câu cá bỗng nghe có người đàn bà hát một câu hát lạ, Thái tử bèn sai người đến gò dâu ấy coi thử người nào hát,  người ấy trở về tâu với Thái Tử là Bà ấy là con gái quan Tham Tướng quân chơn nguyên hầu . Thái tử xem tướng bà là người có phước tướng.  (Bà có đức gì mà bà đi đến đâu chỗ thân Bà có bóng mát che). Sau Thái tử về tâu với vua cha xin phong cho bà làm vợ thái tử  (tức là Hiếu Chiêu Vương hoàng hậu).

Đến sau bà vào cung, Bà tấu lên vua cha cho phép bà trở về nguyên quán,  thưa ông nội và cha mẹ  cho bà về Làng.

Đến sau Bà sinh Đức chúa Hiền là Vua Hiếu Triết Vương. Vua Triết Vương phong cho ông ngoại tước Đạt Tấn phụ giới Thượng tướng quân cấm y vệ đô, chỉ huy sứ ty, chỉ huy sứ chưởng vệ sự thạch quận công và phong em ông ngoại là Đoàn Công Tấn tước cai xã vệ thắng Bá hầu.

 "Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" đã viết về người thục nữ đó rằng “Bà là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Nhạn. Mẹ là phu nhân Võ Thị. Bà là người minh mẫn thông sáng… sáng thơm, tý mỵ, phép tốt trinh thuần”.

Sau khi Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Quận Công trấn giữ Quảng Nam Dinh, Bà Đoàn Thị Ngọc Phi đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề tầm tang ở Đàng Trong được mở mang, đã mở mang vào thời kỳ đó và đã sản xuất được nhiều mặt hàng tơ lụa nổi tiếng như đoạn, lãnh, gấm, vóc, trườu, sa để bán trong nội địa và xuất khẩu ra nước ngoài qua thương cảng Hội An. Bởi vậy, Lê Quý Đôn đã viết trong "Phủ Biên Tạp Lục" rằng “Người Phủ Thăng, Phủ Điện dệt được các loại the, đoạn, lụa, là hoa hòe chẳng kém gì Quảng Đông”.

Cũng từ đó, cảng thị Hội An dưới thời Chúa Nguyễn đã trở thành một trung tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế xuyên đại dương trong thế kỷ XVI - XVII nối liền Tây Âu và Viễn Đông. Và Bà Đoàn Thị Ngọc Phi trở thành "Bà Chúa Tầm Tang" ở Đàng Trong. Các cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở quê hương Bà đã từng hát:

Chiêm Sơn là, lụa mỹ miều

Mai vang tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng...

Nương dâu xanh thắm quê mình

Nắng lên Gò Nổi đượm tình thiết tha

Con tằm kéo kén cho ta

Tháng ngày cần mẫn làm ra lụa đời...

Đến năm 1635, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng và sống ở Thuận Hóa. Chúa thượng đã dời Phủ Chúa từ làng Phước Yên ở huyện Quảng Điền về làng Kim Long thuộc Phú Xuân. Bà Đoàn Thị Ngọc Phi được Chúa Thượng phong tước là Đoàn Quý Phi và thân phụ Đoàn Công Nhạn của bà được phong tước là Thạch Quận Công. Đoàn Quý Phi trong thời kỳ này cũng khuyến khích nghề tầm tang ở Phú Xuân phát triển.

Đoàn Quý Phi sinh hạ được ba hoàng tử, trong đó các hoàng tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, hoàng tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành thế tử. Công chúa út là Nguyễn Phúc Ngọc Dung.

Thế tử Nguyễn Phúc Tần ngay thời còn là Lễ Dũng Hầu, quan quản lảnh Quảng Nam dinh, đã tỏ ra là một con người am hiểu binh pháp, vũ dũng và giỏi chiến trận, đã có công lớn trong việc đánh tan hạm đội Hà Lan dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Peter Back âm mưu đánh phá cảng thị Hội An vào năm 1644. Về sau Thế Tử Nguyễn Phúc Tần trở thành Chúa Hiền năm...

Đoàn Quý Phi mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12 tháng 7 năm 1661, hưởng thọ 60 tuổi (3,4). Sau khi Bà qua đời, Chúa Hiền đã đưa mẫu hậu về an táng tại quê hương Bà. Lăng mộ của Bà đặt bên cạnh lăng mộ của nhạc mẫu là Hoàng hậu Nguyễn Thị Giai.

Theo "Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" Đoàn Quý Phi mất năm Tân Sửu (1661 Lê Vĩnh Thọ thứ tư) mùa hạ tháng 5, táng Vĩnh Diện (ở Thượng Cốc, Hùng Cương thuộc xã Chiêm Sơn, tỉnh Quảng Nam).

Trong "Đại Nam Nhất Thống Chí" quyển 5 viết về Quảng Nam, đã ghi lại vị trí tọa lạc của các Lăng mộ của hai Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai và Đoàn Thị Ngọc Phi như sau: “Lăng Vĩnh Diễn phía Nam núi Hàm Long, xã Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên. Đây là Lăng của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị. Lăng Vĩnh Diện ở phía Tây Gò Hùng, thôn Thượng Cốc, xã Chiêm Sơn. Đây là Lăng của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi”.

Ngược dòng lịch sử, chúng tôi đi tìm dấu tích cổ xưa của nơi an nghỉ cuối cùng của hai Hoàng Hậu đó. Đến nay, tại làng Chiêm Sơn thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam vẫn còn di tích của hai lăng mộ đó với mức độ hư hại khác nhau.

Lăng Vĩnh Diện, mộ phần của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi (1601-1661) mà nhân dân địa phương quen gọi là Lăng Trên, tọa lạc trên một khu đất cao, gọi là Gò Hùng thuộc làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Lăng được xây dựng vào năm 1661 và toàn bộ khu vực Lăng rộng 4 sào 2 thước 7 tấc, ứng với lô đất số hiệu 2583 theo địa bộ xã Duy Trinh (2). Lăng này được đặt tên là Vĩnh Diện vào năm Gia Long thứ 5 (1806) và được tu bổ vào năm Gia Long thứ 13 (1814).

Trong địa phận Lăng Trên còn có mộ của công chúa út của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Theo hồi cố của bà con tộc Đoàn xã Duy Trinh, công chúa này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung, có dị tật bẩm sinh. Lúc sinh thời, công chúa đã hạ giá với Chưởng Cơ của triều đình tên là Minh và đã mất sớm(2).

Phần mộ của công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung không rộng lắm và ứng với lô đất số hiệu 698 của địa bộ xã Duy Trinh (2).

Lăng Vịnh Diện được bao bọc bởi hai lớp thành bảo vệ cao khoảng 1 mét, dày khoảng 0,8 mét: bên ngoài là bảo thành ngoại và bên trong là bảo hành nội, phía sau ở chính giữa các thành này đều có bia tẩm. Trên các bia tẩm này không thấy ghi một chữ Hán nào mà chỉ có phù điêu hình mây cuộn, kỳ lân trông rất ngoạn mục. Các thành bảo vệ đều bị hư hại nặng, chỉ còn vài đoạn ngắn nhưng cái bia tẩm vẫn còn. Ở giữa Lăng là mộ chí của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu mà đến nay vẫn còn nguyên vẹn theo kiểu kiến trúc cổ xưa.

Còn Lăng Vĩnh Diễn là mộ phần của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai (1578-1630) được nhân dân địa phương gọi là Lăng Dưới, cũng tọa lạc trên một khu đất cao gọi là Gò Hàm Rồng cũng thuộc làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, cách Lăng Vĩnh Diện, Lăng Trên hơn nửa cây số. Khu vực Lăng này, ngày xưa rộng gấp đôi Lăng Trên, có diện tích 8 mẫu 4 sào 5 tấc, ứng với lô đất số hiệu 1220 theo địa bộ xã Duy Trinh (2). Niên đại xây dựng Lăng này có lẽ vào cuối năm 1630, vì Hoàng Hậu mất vào ngày mồng 9 tháng 11 năm Canh Ngọ, tức ngày 12-12-1630 tại dinh trấn Thanh Chiêm(5).

Theo "Đại Nam Nhất Thống Chí" thì Lăng Vĩnh Diễn cũng được đặt tên vào năm 1806 và tu bổ vào năm 1814 cùng một lúc với Lăng Vinh Diện.

Trước đây, bên ngoài khu vực của hai Lăng, Chúa Nguyễn còn xây dựng một công trình kiến trúc gọi là Chùa Vua là nơi thờ phụng hai Hoàng Hậu nói trên có vườn cây bao quanh gọi là Vườn Chùa mà nay không còn nữa. Ở đây, trước kia luôn luôn có Đội Cận Vệ

Hoàng Gia, gồm khoảng hai mươi người, thường là con cháu họ Đoàn, có nhiệm vụ bảo vệ các khu Lăng và lo việc thờ cúng.

Diện tích Vườn Chùa khá rộng, đất bên trong thành bao bọc chùa rộng 3 sào 0 thước 9 tấc, đất bên ngoài thành là vườn trồng hoa cảnh, cây ăn trái rộng 5 sào 4 thước 4 tấc ứng với lô đất số hiệu 2281 theo địa bộ xã Duy Trinh.

Ngoài ra, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan còn cấp thêm tư điền làm hương hỏa cho hai Hoàng Hậu họ Mạc và họ Đoàn ở địa phương để con cháu chăm lo hương khói cho hai bà Tư Điền mà Chúa Nguyễn đã cấp trước đây cho Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai là 4 mẫu 8 sào 12 thước thuộc làng Kiệu Đông và làng Kiệu Tây, huyện Duy Xuyên và 2 mẫu thuộc làng Hương Quế huyện Quế Sơn. Tư Điền mà Chúa Nguyễn đã cấp trước đây cho Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi là 4 mẫu 3 sào 12 thước thuộc làng Phú Trang, huyện Quế Sơn(2).

Theo “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên", đến năm 1744, Thế Tôn Hiên Võ Hoàng Đế, tức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã truy dâng Bà Đoàn Quý Phi là Trinh Thục Từ Tỉnh Huệ Phi và sau đó thêm hai chữ Mẫu Duệ. Vua Gia Long, sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi, năm 1806 lại truy tôn Bà Là Trinh Thục Từ Tỉnh Mẫu Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và khắc tên lên Kim Sách của Hoàng Tộc và tôn hiệu này được thờ chung với Hiếu Chiêu Hoàng Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) vào gian thứ nhất bên phải của Thái Miếu ở Huế.

Để tỏ lòng tường niệm công đức của bà Chúa Tầm Tang, vua Thành Thái (1888-1907) năm thứ 18 (1905) đã ban cho tộc Đoàn 1.000 lạng bạc để dựng Nhà Thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu tại thôn Đông Khuông, xã Điện Châu, tức Đông Yên Châu, huyện Điện Bàn. Về sau, sông Thu Bồn chuyển di cắt Đông Yến Châu làm đôi thành Đông Yên Đông thuộc huyện Điện Bàn và Đông Yên Tây thuộc huyện Duy Xuyên.

Hiện nay, nhà thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm trên đất Đông Yên Đông, nay là xã Điện Phương, cách Cầu Mống về phía Bắc bên phải chừng 100 mét trên một khu đất cao. Bước qua các bậc tam cấp là một sân hình chữ nhật lát gạch vuông. Giữa sân là tấm bình phong mà ở giữa đắp nổi hình lân nạm sành sứ nhiều màu sắc và hai bên là hình hai con phượng đứng chầu cũng nạm sành sứ sặc sỡ.

Qua sân, bước lên tam cấp là gian thờ chính Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Trên đỉnh mái ngói âm dương đắp hình lưỡng long chầu nguyệt khá lớn với màu sắc lộng lẫy trông rất đẹp mắt.

Mặt tiền của nhà thờ là bốn trụ tròn bằng gạch to trên đó tô đắp hình bốn con rồng lớn mình bao quanh lấy cột, thân và đầu lẫn trong mây cuộn trông rất hoành tráng. Hậu tẩm chia thành ba gian, đặt ba bàn thờ. Ở gian giữa là nơi đặt bàn thờ của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu với bát nhang, chân đèn, lư hương cổ kính. Ở giữa hương án sơn son thếp vàng đặt thần vị của Hoàng Hậu được phủ tấm lụa điều. Trên thần vị ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Thánh Mẫu Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu”.

Phía trước thần vị của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là Bài vị của người anh ruột của Hoàng Hậu, trên đó ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Quốc Cựu Sầm Oai hầu Đoàn Công Quảng”. Ở gian bên phải, trên bàn thờ đặt Bài vị của ông Nghĩa Sơn Hầu là con trai cả của Sầm Oai Hầu. Ở gian bên trái, trên bàn thờ đặt hai Bài vị của hai người cháu ruột của Hoàng Hậu.

Trong hậu tẩm có nhiều liễn đối bằng gỗ ghi chữ Hán thiếp vàng. Trên hai cột ở hai bên gian giữa của hậu tẩm treo câu đối chữ Hán của vua Thành Thái năm thứ sáu, 1894, cúng phụng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu:

Tấn cung đức hậu phụ quốc phong công truyền Nam Sử

Khai sáng công cao tí dân vĩ tích tráng Đông Châu.

Tạm dịch:

Vào cung đức hậu giúp nước công to truyền Nam Sử

Mở mang công lớn thương dân tích lớn mạnh Đông Châu.

Trên một đôi cột ở các góc hậu tẩm treo một câu đối chữ Hán khác, do vua Bảo Đại năm thứ mười một, 1936, cúng phụng, cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu:

Thi châu bộ đại dư đồ thánh mẫu mở nền truyền Nam Sử

Phục từ đường bắc hạ xứ tôn lăng kế tập tráng Đông Châu

Tạm dịch:

Bản đồ địa bạ đất Thi Châu thánh mẫu mở đường truyền Nam Sử

Dựng lại từ đường nơi Bắc Hạ tôn lăng noi dấu mạnh Đông Châu.

Trên một đôi cột còn lại, treo một đôi câu đối chữ Hán cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu:

Hoàng thích công thần trọng ư triều trọng ư quân

Khai cơ kiến bộ giáp chi đông giáp chi tây

Tạm dịch:

Họ ngoại công thần nhà vua trọng trong triều trọng ngoài quận

Khai cơ lập họ giáp đến tận Đông giáp đến tận Tây.

Đối với nhân dân xứ Quảng, Bà Chúa tằm tang - Đoàn Quý Phi - Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một nhân vật lịch sử được nhân dân địa phương rất kính ngưỡng bởi mối tình tuyệt đẹp của Bà cũng như công lao to lớn của Bà trong nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa trên quê hương. Bởi vậy, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một di tích - địa danh lịch sử được người dân xứ Quảng hết sức quan tâm.

Sau tháng 8, 1945, các khu Lăng Mộ Vĩnh Diện và Vinh Diễn vẫn còn nguyên vẹn, nhưng không còn được bảo vệ như trước nữa và bị lãng quên. Trải qua ba mươi năm chiến tranh, nhân dân đã đào mộ tìm vàng, phá thành lăng để lấy gạch đá làm vật liệu xây dựng, biến khu Lăng thành nơi trồng cây lấy gỗ... làm biến dạng môi trường ở đây.

Vào tháng 2-3 năm 1992, bà con tộc Đoàn xã Duy Trinh đã kết hợp với bà con Nguyễn Phước tộc Quảng Nam - Đà Nẵng đốn hạ cây cối trồng bừa bãi, thu dọn vệ sinh khu Lăng Vĩnh Diện và Lăng Vĩnh Diện, đồng thời bỏ ra kinh phí trùng tu lại mộ chí của Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi, nhưng do thiếu tài chính, các thành bảo vệ xung quanh cũng chưa phục chế lại được như cũ.

Có lẽ công đức đối với nghề trồng dâu dệt lụa trên quê hương cũng như thiên diễm tình một thời vang dội của Bà Chúa Tầm Tang còn lưu lại cho mãi đến tận nay mà các cô gái trên quê hương bà vẫn hát:

Thuyền rồng mái đẩy đi đâu

Để cho em đứng hái dâu một mình...!

Năm 1744, Võ Vương Nguyễn Phước Khoát đã truy dâng bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi, về sau thêm hai chữ Mẫn Duệ thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi Mẫn Duệ.

Năm 1806, vua Gia Long truy tôn bà là Hoàng hậu với vương tước: “Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng hậu” và khắc tên lên kim sách (sách bằng vàng) của hoàng tộc và tôn hiệu này được thờ phụng với Hiếu Chiêu Hoàng đế (chúa thượng Nguyễn Phước Lan) ở Thái Miếu (Huế).

Vân sách lược ghi như sau: Kính nghĩ Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Đoàn Huệ phi, lễ nghi, kính trọng chồng, trinh thục, đúng khuôn phép, hợp đức lớn của quê khôn, mở đầu cho sự giáo hóa của chốn cung đình, sớm kết điềm lnahf, tạo phúc lâu dài cho xã tắc thành tựu đời đời. Nay cậy nhờ linh thiêng mà tạo dựng được cơ đồ bền vững. Kính dâng kim sách tôn hiệu là “Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng hậu”.

  

Nhà thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm trên đất Đông Yên Đông, nay là xã Điện Phương, cách Cầu Mống về phía Bắc bên phải chừng 100 mét trên một khu đất cao

Phần mộ của công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung