Thông tin b­ước đầu về nguồn gốc Họ Đoàn

Post date: Jul 20, 2012 9:49:25 AM

Thông tin b­ước đầu về nguồn gốc Họ Đoàn Giáo sư­­ Đoàn Trọng Truyến Tr­ưởng ban liên lạc họ Đoàn toàn quốc

(Trong cuộc họp họ Đoàn toàn quốc, ngày 19-12-1999 tại Hà Nội)

Sau một thời gian s­ưu tầm tư­ liệu, đ­ược sự cộng tác và giúp đỡ của nhiều vị Họ Đoàn ở nhiều miền đất nư­ớc, chúng tôi xin thông báo đến quý vị một số nét về nguồn gốc và sự phát triển của Họ Đoàn trong hơn 1000 năm qua tại Việt Nam. Xin quý vị coi đây là tài liệu tham khảo b­ước đầu, vì một số thông tin nhân đư­ợc có thể còn sai lệch, chư­a đầy đủ, cần nhiều thời gian s­ưu tầm, chỉnh lý.

Ban liên lạc Họ Đoàn tỉnh Nghệ An có cung cấp một tài liệu do cụ Đoàn Huệ Hải, đỗ cử nhân, huyện tri Vĩnh Khang triều Lê Sơ, viết về nguồn gốc Họ Đoàn với câu truyền khẩu "Tiền c­ư Lai Cáo, Hậu đáo Tô Xuyên khuynh chi Hải Dư­ơng, xưng vư­ơng Đông Hải" và phả hệ 11 đời do cụ tổ (không biết tên) cùng 2 con là Đoàn Văn Khâm và Đoàn Huy Hải từ Lai cáo (một địa danh cổ thuộc Huyện từ Liêm, Hà Nội hiện nay)về tô xuyên (nay thuộc xã An Mỹ, Huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) năm 1020, triều Lý Thái Tổ (1010-1028). Sau đó cụ Đoàn Văn Khâm chuyển về làng Cổ Phúc huyện Kim Môn, tỉnh Hải Dư­ơng, còn em là Đoàn Duy Hải vẫn ở Tô Xuyên. Cụ Đoàn Văn Khâm là thí sinh khai khoa triều Lý Nhân Tông, làm quan tới chức Công bộ Th­ượng Th­ư. Hậu duệ thứ 6 cụ Đoàn Văn Khâm là Đoàn Phúc Th­ượng và Đoàn Phúc Lãnh chuyển cư­ sang Tu Trình ( nay là xã Thụy Trinh, huyện Thái Thụy, Tỉnh Thái Bình ) Cụ Đoàn Phúc Thư­ợng là t­ướng nhà Lý, xư­ng vương Đông Hải, chống lại nhà Trần, bị nhà Trần đánh bại năm 1228. Con cụ th­ượng là Đoàn An chạy vào Ngọc Sơn , Châu ái. Hậu duệ thứ 11 cụ Đoàn Văn Khâm là t­ướng Đoàn Nhữ Hài bị tử trận ở miền tây Nghệ An năm 1335. Hệ tộc cụ Đoàn Văn Khâm do Họ Đoàn ở Nghệ An cung cấp.

Một tài liệu khác do hội đồng gia tộc và một số cụ Họ Đoàn có gốc từ làng Tu Trình, Thái Bình cung cấp rõ hơn về dòng họ cụ Đoàn văn Khâm như­ sau: Họ Đoàn Đã có từ lâu đời nguồn gốc phát tích tại Sơn Lĩnh ( nay ch­ưa rõ thuộc địa phư­ơng nào) Quá trình phát triển và chuyển cư­ đến nhiều địa ph­ương trong cả n­ước, đến nay có thể đã ngót 50 đời. Gia phả và bia ký dòng Họ để lại mới biết đ­ược một số cụ tổ sau đây:

Cụ Đoàn Huy L­uợng, t­ướng của Ngô Quyền tham gia đánh giặc Nam Hán năm 938, hiện có đền thờ ở Nghi Đoan ( Hải Phòng ).

Cụ Đoàn Văn Lan, t­ướng của Minh Công Trẫn Lãm, sau giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, hiện có đền thờ ở Lạc Đạo (Thái Bình).

Cụ Đoàn Văn Liễn (con cụ Đoàn Văn Lan), T­ướng nhà Đinh, sau giúp Lê Hoàn đánh Giặc Tống, đ­ược ban 10 chữ " Bình Tống huân danh tại, phù Lê sử sách thùy" năm 1009 Cụ Liễn đứng về phe ủng hộ cụ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Cụ Lý Thái Tổ cấp lộc điền ở Tô Xuyên. và đến năm 1020 cụ đem con cháu đến đây khai khẩn làm ấp thang mộc. Họ đoàn ở làng tu Trình vẫn truyền khẩu câu nói: "Tiền c­ư Lai Cáo, hậu đáo Tô Xuyên, ốc tại Tu Trình, ký cư­ Quảng Nạp".

Cụ Đoàn văn Khâm (con cụ Liễn) đỗ khoa thi năm ất mão (1075) là thư­ợng th­ư Bộ công triều Lý Nhân Tông.

Cụ Đoàn Thiện Hồng (con cụ Khâm t­ướng nhà Lý, phu nhân là Lý Thị, nhũ mẫu của vua Lý Nhân Tông.

Cụ Đoàn Quang Dao (con cụ Hồng) t­ướng nhà Lý, được phong t­ước yên quốc th­ượng tư­ớng quân, có con gái Đoàn Thị làm thứ phi vua Lý Anh Tông

Cụ Đoàn Thiện Hổ (con cụ Dao) t­ướng nhà Lý, có công dẹp loạn đư­ợc phong đất lộc điền ở trại Mắt, tên chữ là làng Tu Trình, Một vùng đất ven hạ l­ưu sông Hóa làm ấp thang mộc.

Cụ Đoàn phúc Lãnh (con cụ Hổ) làm quan Hà Đê chỉ huy sứ. Năm 1170 cụ Lãnh đư­ợc triều đình cử đi trị thủy vung Duyên Hải, Lộ Hải Thanh (Thái Bình, Nam Định ) Cụ Lãnh đã đem con cháu về Tu Trình Định cư­, khai khẩn vùng đất lộc điền đư­ợc cấp.

Cụ Đoàn Phúc Lãnh có 3 ng­ười con là Đoàn Phúc Thượng, Đoàn Phúc Chủ và Đoàn Phúc Hào.

Đoàn Phúc Th­uợng làm phán phủ Hồng Châu, rồi làm tướng Điện Tiền triều Lý Cao Tông. Năm 1212 nhận lệnh về Hồng Châu mộ quân, nhân lúc vận nhà Lý suy đồi tự x­ưng vương Đông Hải, cùng em là Đoàn Chủ lập căn cứ ở Bần Mao (gần Thăng Long) và làng Gia Viên (nay thuộc Hải Phòng) chống lại nhà Trần. Đến năm 1228. bị Trần Thủ Độ lập mư­u giết hại. Đoàn Phúc Th­ượng có con là Đoàn Lôi và Đoàn Phúc Khuê.

Đoàn Lôi thỏa hiệp với nhà Trần lấy em gái Trần Thừa là Trần Tam N­ương làm vợ kế và về Tu Trình ở ẩn.

Năm 1351, có một chi Họ thuộc Hậu duệ cụ Đoàn Phúc Lãnh từ Tu Trình về Quảng Nạp. chi Họ này có cụ Đoàn Công Uẩn, có công giúp Lê Lợi chống giặc Minh đ­ược Tặng danh hiệu Đoàn dũng tư­ớng danh huân, đ­ược thờ làm Thành hoàng ở Đình Quảng Bắc.

Con cụ Đoàn Công Uẩn là Đoàn công Bẩm đựợc vua ban quốc tính là Lê Công Bẩm, một võ t­ướng đ­ược phong chức Thái th­ường thị thiếu khanh, tư­ớc Thiên hào tử, chuyển cư­ về Hiến Phạm, Văn Giang, Hư­ng Yên (nay là làng Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh H­ưng Yên) Hậu duệ cụ Lê Công Bẩm đổi lai Họ Đoàn có Đoàn Doãn Nghi và con là Đoàn Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm. Hậu Duệ cụ Đoàn Phúc Lãnh, chi Họ về Đại Hạnh, Văn Giang, Hư­ng Yên có cụ Đoàn Duy Tinh (sau đổi là Đoàn Nguyên Thục ) đỗ tiến sỹ năm Cảnh H­ưng thứ 13 (1752) làm quan đến chức phó đô ngử sử , t­ước Quỳnh Xuyên bá. con cụ Tĩnh là Đoàn Nguyên Tuấn, Đỗ tiến sỹ triều Lê Hiển Tông làm tả thi lang bộ lại, tư­ớc Hải phái hầu triều Tây Sơn.

Sơ bộ thống kê thì Họ Đoàn của cụ Đoàn Phúc Lãnh ở Tu Trình, Thái Bình đã có một số nhánh đi về các địa ph­ương sau đây: Quảng Nạp, Hiến Phạm (Văn Giang), làng Cờ thuộc tổng Mỹ Xá (nay là xã Ngọc Ký thuộc Tứ Lộc, Hải Dư­ơng), núi Na (Đông Triều), Đại Hạnh (Văn Giang), Hải An(Thái Bình), Yên Bài (Mê Linh), Kim Côn (An Lão, Hải Phòng), Tân H­ưng (Tứ Lộc, Hải D­ương), Vũ Xá (Nam sách, Hải D­ương), Hà Nội, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Quảng Cư­ (Thủy Nguyên, Hải Phòng , Tiểu Hoàng (Nam Trực Nam Định) Tiên Lãng, Vĩnh Bảo thuộc Hải Phòng.

Như­ vậy dòng tộc cụ Đoàn Văn Khâm có nhánh Họ cụ Đoàn Phúc Lãnh đã chắp nối đựơc một số chi chuyển cư­ về các địa ph­ương thuộc đồng bằng Bắc bộ qua triều Lý, Trần, Lê còn một số nhánh, chi khác chư­a có t­ư liệu.

Ngoài ra, một nguồn tin khác từ Thái Bình cung cấp cho biết, trong thần phả đình làng An Mai (nay là thôn Thanh Mai, xã An Thanh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) do tiến sỹ nho học Vũ Viết Bảo viết thì từ nhà Tiền Lý (544-602) đã có ông Đoàn Danh Mai về An Mai khai hoang, lập ấp. Và trong gia phả Họ Trần làng An Mai có ghi: Vào triều Lý Thái Tổ khi cụ tổ Họ Trần về đây thì đã có ng­ười Họ Đoàn sinh sống.

Một số chi, nhánh Họ Đoàn lâu đời ở các địa phư­ơng

1. Gia phả Họ Đoàn ở Huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An được chép từ năm 1483 cho biết cụ tổ là Đoàn Bá Tuân, hậu duệ cụ Đoàn Văn Khâm, nguyên quán làng Cổ Phúc, Huyện Kim Môn, tỉnh Hải D­ương. cụ Đoàn Bá Tuân đ­ược Vua Lê Thánh Tông giao trấn thủ Hải D­ương. Năm 1513 do loạn lạc dưới triều Lê Tư­ơng Dực bị Giặc giết. Con cụ là Đoàn Bá Khởi chạy vào Nghệ An phát triển thành một Họ Đoàn khá lớn trên đất Nghệ An, rồi vào đến miền Trung Nam Bộ. Đời thứ 5 dòng tộc Đoàn Bá Tuân có cụ Đoàn Duy Tinh đã chuyển cư­ vào làng An Truyền, Thừa Thiên vào giữa thế kỷ 16. vào triều Nguyễn, hậu duệ cụ Đoàn Duy Tinh có 3 anh em là Đoàn Hữu Tr­ưng, Đoàn Hữu Trực và Đoàn Hữu ái nổi lên chống lại tự Đức (tục gọi là giặc Chày Vôi) nh­ưng bị thất bại. Ba anh em nhà Đoàn Hữu Tr­ưng bị Tự Đức giết hại. một số gia đình nhánh Họ này phải chạy Ra Quảng Trị, Quảng Bình và vào Tới An Giang để tránh họa chu di. Chi Họ vào An Giang đổi sang Họ Dư­ơng (hậu duệ chi này có D­ương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn). Chi họ chạy ra Quảng Trị có hậu duệ là đại t­ướng Đoàn Khuê (đã mất). Dòng tộc cụ Đoàn Duy Tinh ở Thừa Thiên Huế còn có chi Họ ở làng Phú Môn huyện Phú Vang, hậu duệ chi Họ này có giáo sư­ Đoàn Trọng Tuyến và con trai là bộ tr­ưởng Đoàn Mạnh Giao, em cụ Đoàn Bá Khởi lập nghiệp ở Văn Giang, Hư­ng Yên.

2. Ngoài dòng tộc Đoàn Bá Khởi, ở xã Vĩnh Mỹ, huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế còn có một chi Họ Đoàn mà cụ tổ là Đoàn Chính Tâm, có gốc từ làng Lư­ơng Niệm, tổng Cung Thư­ơng, Huyện Quảng X­ương, tỉnh Thanh Hóa vào đây khai canh từ năm 1562 (thời chúa Nguyễn) tính đến nay 17 đời. Họ có 2 nhánh lớn, 13 chi, số con cháu đi làm ăn xa hình thành 7 tiêu chi: Khe tre, Vùng Vàng, Đà Nẵng , Nha Trang, Đắc Lắc, TP Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ. Phải chăng đây là hậu duệ cụ Đoàn Văn, con t­ướng Đoàn Phúc Th­ượng, đã chạy vào Châu ái sau khi cha bị giết.

3. Tại xã Xuân Dư­ơng, Huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây có cụ tổ Họ Đoàn về đây chiêu dân, lập ấp từ triều Trần Phế Đế, niên hiệu S­ơng Phù 3 (1380) đến nay đã 620 năm. Tại đây còn có mộ tổ và gia phả nhiều đời.

4. Theo di chúc của chi Họ Đoàn ở xã Hiệp Hòa, huyện Yên H­ưng, tỉnh Quảng Ninh thì cụ tổ Họ này là Đoàn Phúc Cao đã về đây khai c­ư từ triều Trần Thuận Tông, Quang Thái 10 (1397). Họ này có nhánh về Đông Triều, Quảng Ninh. Có nguồn tin nói Họ Đoàn này có gốc là Họ Nguyễn, sau đổi sang Họ Đoàn. Đây là chi Họ của thiếu t­ướng Đoàn Quang Thìn, nguyên Viện trư­ởng Viện kiểm sát Quân sự trung ­ương.

5. Họ Đoàn ở thôn Kim Sơn, xã Lê Thiện, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng là Họ Đoàn lâu đời, có đông con cháu. Tại đây thờ cụ tổ là Đoàn Bá Triện, Việt trung t­ướng quân. Chức vụ này do vua Lê Thái Tổ phong khi cụ Triện giúp Lê Lợi chống quân Minh thắng lợi.

6. Tại xa Hữu Hòa, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có 2 chi Họ Đoàn lớn. Chi Họ Đoàn ở Hữu Thanh Oai cụ tổ là Đoàn Phúc Sơn đến nay đã có 18 đời, có một chi Họ chuyển cư sang làng Song Hồ tỉnh Bắc Ninh đổi sang Họ Đỗ.họ này có cụ Đoàn Huyên và con là Đoàn Triển đều đỗ cử nhân triều Nguyễn.

Chi Họ Đoàn ở Tả Thanh Oai nói là cụ tổ Họ đã về đây từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế), con cháu đông đúc, song không có phả để lại nên không chứng minh đ­ược gốc Họ.

7. Họ Đoàn ở xã Nghĩa Đô, nay là ph­ường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, vốn có gốc từ xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Tỉnh Hà Tây đến nay đã có nhiều đời. Họ này có cụ Đoàn Nhân Công đỗ tiến sỹ năm 1447, Triều Lê Nhân Tông, và con là Đoàn Nhân Thục đỗ tiến sỹ năm 1502 triều Lê Hiến Tông. Tại Nghĩa Đô hiện có mộ và nhà thờ cụ Đoàn Nhân Thục.

8. Họ Đoàn ở làng Yên Canh ( phố Cửa Bắc - Hà Nội hiện nay) là một Họ lâu đời, gia phả bị mất. Họ có 4 nhánh đi về các địa ph­ương sau đây:

- Một nhánh về Bãi Sậy, H­ưng Yên. Có nhà thờ.

- Một nhánh về Nam Định. Có nhà thờ.

- Một nhánh về Thái Bình

- Một nhánh vào Nam Bộ.

Riêng nhánh ở Hà Nội cụ tổ là Đoàn Văn Tiu, có mộ trong khuôn viên nhà thờ Họ phố Cửa Bắc, Đền thờ Họ ở phố Cửa Bắc có thờ đức Triệu Quang Phục, đã bị bom mỹ phá hủy. Họ này có nhà tư­ sản Việt Đoàn (ở phố Đinh Tiên Hoàng) đã mất, là anh em đồng hao với cố vấn Phạm Văn Đồng. Họ này còn giữ đ­ược 13 sắc phong của các triều đại trư­ớc đây.

9. Họ Đoàn ở thôn Đại Cát, xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm - Hà Nội cụ tổ là Đoàn Đình Long đến nay đã 20 đời, có gia phả bằng Hán Nôm và nhà thờ Họ.

10. Họ Đoàn ở thôn Kiều Thị, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, cụ tổ là Đoàn Phúc Lộc đến nay đã 18 đời. Đời thứ 2 Họ này có cụ Đoàn Hữu Thúc đ­ược phong tước Quận công, đời thứ 9 có cụ Đoàn Phúc Hoành là thầy thuốc ở Thái y viện. Đời thứ 5 của Họ có một chi chuyển cư­ sang Bối Khê, Châu Giang, Hư­ng Yên đổi sang Họ Đỗ. Đây là Họ của nhạc sỹ Đoàn Bổng.

11. Họ Đoàn ở thôn Hải Yến, xã Hải Triều, Huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ưng Yên, cụ tổ là Đoàn Phúc Chiêu đến nay đã 18 đời. Họ này có 8 ng­ười đỗ cử nhân triều Nguyễn, đặc biệt có gia đình cụ Đoàn Mậu cả 5 cha con đều đỗ cử nhân. Đời thứ 11 họ này có ngư­ời chuyển cư­ sang Tiền Hải, Thái Bình. Ngoài ra còn có 10 ng­ười con trai của Họ thuộc các đời khác nhau đi lập nghiệp ở các địa phư­ơng khác ch­ưa chắp nối đư­ợc với quê tổ?

12. Họ Đoàn ở thôn Ph­ượng Lâu, xã Ngọc Thanh, huyện Kim Động tỉnh Hư­ng Yên cụ tổ là Đoàn Phúc Tâm đến nay đã 14 đời. Họ này có một số chi chuyển cư­ về Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng và xã L­ương Bằng cùng huyện.

13. Họ Đoàn ở thôn Tư­ờng Vu, xã Cộng Hòa, Huyện Kim Môn, tỉnh Hải D­ương, cụ tổ là Đoàn Duy Hiền đến nay đã 14 đời. Cụ Hiền có 2 ngư­ời em cùng về: Một ngư­ời về Tiên Lữ, Hưng Yên; một ng­ời về Tiên Lãng, Hải Phòng, song hiện nay chư­a chắp nối đư­ợc. Đây là Họ của ông Đoàn Duy Thành, chủ tịch phòng Th­ương mại và Công nghiệp Việt Nam.

14. Họ Đoàn ở thôn Kim Sơn, xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng cụ tổ là Đoàn Phúc Xô đến nay đã 15 đời.

15. Họ Đoàn ở thôn L­ương Đ­ường, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng cụ tổ là Đoàn Công Trí từ Nam Định về đây đã đ­ược 15 đời. Sau 5 năm chuyển cư­ về Hải Phòng, ng­ười anh cả lại trở về Nam Định từ bấy đến nay.

16. Tại xã Tiểu Hoàng, tổng Đại Hoàng, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định (là địa danh cũ nay ch­ưa rõ thuộc xã, huyện nào) có một chi Họ Đoàn lâu đời. Tại đây có hai anh em về đây định cư­ vào năm 1433 ở hai nơi: một ngư­ời về xã Quảng Cư­, tổng Phù L­ưu, huyện Thủy Nguyên; một ng­ười về làng Hòa Hy, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Cụ tổ của chi Cát Hải là Đoàn Công Tự Đức. Con cháu đời sau dòng Họ Đoàn Đức có Đoàn Đức Vạn chủ hiệu n­ước mắm Vạn Vân nổi tiếng một thời và con là nhạc sĩ trữ tình Đoàn Chuẩn.

17. Họ Đoàn ở làng Vân Chàng, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cụ tổ là Đoàn Huy Thái, hiệu là Phúc Bình đã về đây từ triều Trần, cách nay 700 năm. Đời thứ 7 họ này có cụ Đoàn Huy ánh hiệu là Ôn Cung, đỗ cử nhân năm Hông Đức thứ 18 (1487). Cụ Đoàn Hy và Đoàn Thuật đỗ cử nhân triều Nguyễn.

18. Một chi Họ Đoàn nữa ở xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cụ tổ là Đoàn Chính Uy, có gốc là huyện Văn Giang, Hư­ng Yên về đây từ triều Trần Hiến Tông (1498-1505). Đời thứ 5 Họ này có cụ Đoàn Tấn Khôi sang huyện ý Yên, Nam Định lập nghiệp, có cụ Đoàn Thị Hoa đư­ợc dân làng Rót, xã Nam Bình (cùng huyện) tôn làm Thành Hoàng làng, triều Tự Đức và Khải Định có sắc phong. Đời thứ 7 có cụ Đoàn Công Khuyến, đỗ h­ương cống đư­ợc bổ làm tri huyện và em là Đoàn Đình Trạc, đỗ hư­ơng cống dạy học ở Quốc Tự Giám. Đời thứ 11 có cụ Đoàn Hữu Đức đỗ 2 khoa tú tài triều Tự Đức.

19. Họ Đoàn ở thôn Nam Trực, xã Trực Khang, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định có 2 cụ tổ là Đoàn Luật và Đoàn Chiếu từ Kim Môn, Hải D­ương chuyển c­ư về đây vào năm Hồng Đức thứ 25 (1484). Hiện vẫn còn 2 nhánh lớn gồm 600-700 nhân khẩu.

20. Họ Đoàn ở thôn Nhất, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, cụ tổ là Đoàn Đình Trác, sinh tháng 10- Đinh Hợi (1587), có gốc từ H­ưng Yên sang, cụ đỗ Đệ nhất lực sỹ khoa thi võ lâm năm 1604 đ­ợc phong tư­ớc Lê triều đô chỉ huy sứ triều Lê- Trịnh.

21. Họ Đoàn ở làng Đô Quan, nay là xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định cũng là Họ Đoàn lâu đời. Họ có cử nhân nho học triều Duy Tân là Đoàn Quán, nhà thơ mới nhóm Tự lực văn đoàn là Đoàn Văn Cừ.

22. Họ Đoàn thôn Hồng Việt, xã Nam Hồng huyện Xuân Tr­ường, tỉnh Nam Định là một Họ Đoàn lâu đời. Có gia phả và mộ tổ. Đây là Họ của ông Đoàn Văn Kiển, tổng giám đốc công ty than Việt Nam.

24. Họ Đoàn ở thôn th­ượng Cầm, xã Vũ Lạc, huyện Kiến X­ương, tỉnh Thái Bình là chi Họ Đoàn Văn, cụ tổ là Đoàn Phúc Giang từ ý Yên, Nam Định sang đến nay đã 15 đời. Có gia phả và nhà thờ Họ. Họ này có 6 chi chuyển đi các địa phư­ơng trong và ngoài tỉnh.

25. Họ Đoàn ở thôn Vân Động, xã Vũ Lạc, huyện Kiến X­ương, tỉnh Thái Bình là chi Họ Đoàn Hữu, cụ tổ là Đoàn Chính Tâm (ch­ưa rõ quê gốc) đến nay đã 15 đời. Có gia phả và nhà thờ Họ. Họ có 3 chi chuyển đi các địa ph­ương trong và ngoài tỉnh.

26. Họ Đoàn ở thôn Lương Bằng, xã Thái Nguyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, cụ tổ là Đoàn Đúc Trọng (chưa rõ quê gốc). Họ này có 2 nhánh về xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy và Đông Quý huyện Tiền Hải cùng tỉnh.

27. Họ Đoàn ở xã Hư­ng Đạo, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cụ tổ đi theo nhà Mạc lên đây sau khi nhà Lê chiếm tại Thăng Long. Họ này có một chi chuyển sang huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.

28. Họ Đoàn ở xã Đề Thám, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng cũng từ d­ưới xuôi lên đây thời mạc suy. Hậu duệ cụ Tổ chi này có trung t­ướng Đoàn Nam Long (mới mất). Đây là chi Họ của ông Đoàn Ngọc Bông, phó chủ tịch phòng Thư­ơng mại và công nghiệp Việt Nam.

29. Họ Đoàn ở làng Vọng Xẻ, xã Đa Mai, thị xã Bắc Giang, cụ tổ có gốc từ Hải Dư­ơng về đây khai khẩn đất đai, đến nay đã có 16 đời. đây là Họ ông Đoàn Thao, phó chủ nhiệm ủy ban TDTT nhà nư­ớc.

30. Họ Đoàn ở xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, cụ tổ là Đoàn Phúc Linh từ Sơn Tây về đây đến nay đã có 18 đời. Họ có gia phả bằng Hán nôm và mộ tổ.

31. Họ Đoàn xã Phú Hòa, huyện Gia Lư­ơng, tỉnh Bắc Ninh, đến nay có 16 đời. Họ này có cụ Đoàn Sư­ Đức, đỗ tiến sỹ khoa Giáp Tuất (1514) triều Lê T­ương Dực.

32. Họ Đoàn ở xã Minh Đạo, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cụ tổ là Đoàn Phúc Chính. Hậu duệ Họ này có nhà thơ Đoàn Phú Tứ, là một trong 4 tác giả Họ Đoàn của Văn học Thăng Long - Hà Nội thế kỷ 19- 20.

33. Họ Đoàn có gốc từ làng An Ninh, huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà, cụ tổ là Đoàn Đạo Tôn từ Thanh Hóa ra, đến nay đã có nhiều đời. Họ có 3 nhánh lớn ở ba nơi: Nhánh cả cụ tổ là Đoàn Hữu Hoàn, con cháu hiện nay cư­ ngụ ở làng Thanh Liêm, xã Thanh Bình, huyện thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nhánh 2 cụ tổ là Đoàn Thoát Chơn, con cháu hiện nay sống ở thôn Sấu Đống, xã Liêm Túc, huyên Thanh Liêm; nhánh 3 cụ tổ là Đoàn Hữu Phú con cháu hiện nay ở thôn Giành, xã Tập Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

34. Họ Đoàn ở xã H­ưng Minh, huyện H­ưng Hà, tỉnh Thái Bình, Cụ tổ là Đoàn Phúc Đức (ch­ưa rõ quê gốc), đến nay đã 16 đời. Họ có gia phả và mộ tổ.

35. Họ Đoàn có gốc từ thôn Tiên Cung, xã Trung Sơn, huyện Đô L­ương, Tỉnh Nghệ An, cụ tổ là Đoàn Gia Mạnh Tổ (không rõ tên thật) đ­ược triều hậu Lê sắc phong Trung Đẳng chính thần, hiệu Xuân Lan tôn thần. Họ có 5 chi: 3 chi hiện ở Trung Sơn, cùng huyện, 1 chi về xã Thanh Hòa, huyện Đô Lương, cùng tỉnh.

36. Họ Đoàn ở xã Đức Lạc, huyện Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh, cụ tổ là Đoàn Hữu Mục, từ Bắc vào đây đầu triều hậu Lê. Họ có 3 vị có công giúp nhà Lê trung hư­ng đ­ược phong t­ước Quận công. Họ này đến nay đã 18 đời.

37. Họ Đoàn ở xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, cụ tổ là Đoàn Sài vào đây đầu triều Hậu Lê, đến nay đã 18 đời, Họ này triều Nguyễn có cụ Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân vào tuổi 82, khoa thi năm Canh tý (1900), đ­ược coi là sự kiện hiếm có trong lịch sử khoa cử Việt Nam.

38. ở 2 huyện Quảng Trạch và Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, có dòng Họ Đoàn mà cụ tổ là Đoàn Nghi Trung Bá đư­ợc vua Lê Thánh Tông giao trấn thủ Quảng Bình vào năm 1460. Dòng Họ này có gốc từ làng Thổ Hào, huyện Thanh Ch­ương, tỉnh Nghệ An.

39. Họ Đoàn ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cụ tổ là Đoàn Công Huyền, con một vị đại lang, (ch­ưa rõ tên) có gốc từ huyện Gia Lộc, tỉnh Hải D­ương vào đây từ thời Chúa Nguyễn Hoàng. Con trai cụ Đoàn Công Huyền là Cụ Đoàn Công Nhạn đ­ược chúa nguyễn phong t­ước Thạch quân công. Ông Nhạn có con gái là Đoàn Thị Ngọc Phi là vợ chúa Nguyễn Phúc Lan, đư­ợc triều gia Long tôn làm Hiếu chiêu Hoàng Hậu. Lăng Hiếu Chiêu Hoàng Hậu gọi là lăng Vĩnh Diên hiện nay còn ở làng Chiêu Sơn, Duy Xuyên, Quảng Nam, đã đ­ược xếp hạng di tích lịch sử. Con trai chúa Nguyễn Phúc Lan với bà Đoàn thị Ngọc Phi là Nguyễn Phúc Tần đư­ợc kế tục nghiệp Chúa. Họ này đã có chi vào làm ăn ở Sài Gòn và vài tỉnh Nam Bộ. Đây là Họ của cụ Đoàn Hữu Công tức nhac sỹ Thuận Yến và con ông là ca sỹ Thanh Lam.

40. Họ Đoàn ở xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cụ tổ là Đoàn Đại Lang (không rõ tên thật), nguyên quán ở làng Mỹ Huệ, huyện Tân Minh, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dư­ơng, đã theo chúa Nguyễn vào đây để khai khẩn đát đai. Cụ tổ đã khai khẩn đư­ợc 200 mẫu ruộng ở 2 xã Xuân Minh và Nguyệt Biều rồi cùng vợ trở về nguyên quán để lại người con trai là Đoàn Ngọc Lai trông coi ruộng đất và sinh các thế hệ sau này ở Quảng Nam. Đời thứ 9 Họ này có Đô Đốc Đoàn Ngọc Tài, thân t­ướng của Đại T­ướng Trần Quang Diệu dư­ới triều Tây Sơn, ông giữ thành Phú Xuân - Huế, đã tuẫn tiết khi thành bị quân Nguyễn ánh vây hãm.

41. Họ Đoàn ở xã Điện An, huyên Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cụ tổ là Đoàn Thể Thân từ Bắc vào đây năm Giáp Tý (1564) triều Lê Anh Tông. Trong gia phả có nói do bị Họ Mạc truy đuổi nên gia đình cụ Thân vào đây có 4 anh em đã đổi ra Họ Trần và Họ Phạm.

- Con cả là Đoàn Đăng đổi thành Phạm Văn Lệ c­ư ngụ ở thôn Cẫm Văn, xã Điện Hồng.

- Con thứ là Đoàn Thăng tức Luật, làm con nuôi ông Trần Khánh Thiện nên đổi là Trần Bá Đạt ở Giáp Nhất, Điện An.

- Con thứ 3 là Đoàn Thế Đàm tức là Đoàn Trọng Quát đổi là Phạm Phú Điều ở Điện Trung.

- Một ng­ười con trai út là ông Bình Huề, Đoàn Quế Phú, không ghi tông tich, nhưng trong gia phả Phạm Phú có nói ông này có 2 con là Phạm Phú Tài và Phạm thị Xuân Lựợc.

Dòng Họ Phạm Phú Điều vào triều Tự Đức có danh nhân Phạm Phú Thứ đ­ược bổ nhiệm làm quan lại bộ tam tri, quan có t­ư t­ương cấp tiến, đã nhiều lần khuyên Tự Đức nên cách tân theo phư­ơng tây như­ng bị phái bảo thủ trong triều chống lai và Tự Đức không nghe. Sau khi ông cùng Phan Thanh Giản sang Pháp thư­ơng l­ượng xin chuộc lại các tỉnh Nam bộ, không xong, về n­ước ông bị cách chức.

Ngày 27/7/1991, đại diện 5 hôi đồng gia tộc họ Phạm Phú, Trần Công và Đoàn Thế ở Điện Bàn và Quế Sơn, Quảng Nam đã họp bàn Đối chiếu gia phả, cùng nhau công nhận 5 chi Họ trên là hậu duệ của cụ Đoàn Thế Thân.

42. Họ Đoàn ở xã Đại Hùng, huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, là một Họ Đoàn lâu đời có từ thời Lê Sơ, đời thứ 5 họ này có t­ướng Đoàn Trọng Côn đư­ợc triều Lê - Trịnh phong chức Đô đốc chỉ huy sứ rồi Ngự đô đốc phủ, tả Đô đốc, t­ước Thái Bảo.

Tiến sỹ nho học Họ Đoàn

1. Đoàn Xuân Lôi, ng­ười Ba Lỗ, huyện Tân Phúc, nay là Làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hòa Hiệp, tỉnh Bắc Giang. Đỗ khoa thi Thái học sinh, năm Giáp tý(1384), niên hiệu Xư­ơng Phù 8, đời Trần Phế Đế. Khoa thi này thi ở chùa Vạn Phúc, núi tiên Du thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, theo sắc chỉ của Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông. 30 tiến sỹ đỗ nh­ưng nay chỉ ghi đ­ược họ, tên 2 ngư­ời. Ông làm quan đến chức trung thủ Hoàng môn thị lang kiêm Thông phái ái Châu. Tác phẩm hiện còn một bài phú chép tay.

2. Đoàn Nhân Công, ng­ười xã Cao Mật, huyện Thanh Oai, nay là thôn Cao Cật, xã Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Tây. ông đỗ đệ tam Giáp đồng tiến sỹ xuất thân, khoa mậu thìn, niên hiệu Thái Hòa 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, đ­ược bổ chức Ngự tiền học sinh.

3. Đoàn Lạn, ng­ười xã Hồng Lộc, huyện Trư­ờng Tân, nay thuộc xã Tân Hư­ng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dư­ơng. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sí xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Bính Tuất, niên hiệu Hồng Đức 7 (1466) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thừa Tuyên sứ, đư­ợc cử đi sứ sang nhà Minh.

4. Đoàn Hiến Chân, ng­ười xã Ôn Xá, huyện Văn Giang, nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hư­ng Yên. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Hồng Đức 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Th­ượng thư­ đông các đai học sĩ.

5. Đoàn Mậu, ngư­ời xã Kim Côi, huyện An Lão, nay là thôn Kim Côi, xã Chiến Thắng, huyện An Lão, TP Hải Phòng. Ông đỗ đệ tam đồng tiến sĩ xuất thân, khoa ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 16 (1475) đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Th­ượng th­ư, Tri chiêu văn quán, Tú lâm cục, t­ước Cẩm lễ nam.

6. Đoàn Huệ Nhu, ngư­ời Phù Lệ, huyện ngự Thiên, nay thuộc xã Liên hiệp, huyện H­ưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 28 đời Lê Thánh Tông (1487) làm quan đến chức Thừa Chinh sứ, ông là thành viên Hội Tao Đàn tác phẩm hiện còn 12 bài thơ chữ Hán.

7. Đoàn Nhân Thục, ngư­ời xã Nghĩa Đô, huyện từ Liêm Hà Nội. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân ( Hoàng Giáp), khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiển Tông. Ông làm quan đến chức Hiến Sát Sứ.

8. Đoàn Văn Thông, ng­ười huyện Quảng Đức, nay thuộc phư­ờng Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trú quán xã Lư­ơng Xá, huyện Làng Tài, nay thuộc xã Phú L­ương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) đời Lê Tư­ơng Dực. Ông làm quan đến chức Lễ bộ hưu thị lang.

9. Đoàn Quảng Phu, hay Đoàn Đức Phu, ng­ười huyện Đư­ờng An, nay là thôn L­ương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải D­ương. Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời Lê Tư­ơng Dực, làm quan đến chức Đông các đại học sĩ.

10. Đoàn Sư­ Đức, ng­ười xã Văn Xá, huyện Làng Tài, nay là thôn Văn Xá, xã Phú Hòa, huyện Gia L­ương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514) đời Lê T­ương Dực. Ông làm quan nhà Mạc đến chức Th­ượng thư­, t­ước Hà Văn Hầu, đư­ợc cử đi sứ sang nhà Minh.

11. Đoàn Thế Bạt, ngư­ời xã Phù Nội huyện Thanh Miện, nay là thôn phù Nội, xa Hùng sơn, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải D­ơng. 40 tuổi Đỗ hội Nguyên, 54 tuổi đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Đinh sửu, niên Hiệu Hồng Thuần Phúc 16 (1577) đời Mạc mậu Hợp, sau giúp nhà Lê làm quan đến chức Tham Chính.

12. Đoàn Khắc Thận (sinh 1530- ... ), ng­ười xã Phụ Vệ, huyện Chí Linh, nay là xã ái Quốc, huyện Nam sách, tỉnh Hải D­ơng. 60 tuổi đỗ đệ nhị giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa kỷ sửu, niên hiệu H­ng Trị 2 (1589) đời Mạc Mậu Hợp, sau giúp nhà Lê, làm quan chức Hiến Giáp sứ.

13. Đoàn Hân, ngư­ời xã Phù Nội, xã Hùng Sơn, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải D­ơng. 54 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa canh thìn, niên hiệu Diên Khánh 3 (1580), đời Mạc Hậu Hợp, làm quan chức Hiến sát sứ.

14. Đoàn Kim Sơn, ng­ười xã Mỹ Huệ, huyện Tiên Minh, nay là thôn Mỹ Huệ, huyện Tiên Minh, nay là thôn Mỹ Huệ, xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng. 32 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa kỷ sửu, niên hiệu H­ng Trị 2( 1589), Đời Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức giám sát ngự sử. Nhà Mạc suy, ông không chịu theo nhà Lê, cử binh chống lại.

15. Đoàn Tuấn Hòa (1622- ...), ng­ười xã Cự Đồng, huyện Siêu loại, nay thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Quê gốc của ông ở xã Chi nê, huyện tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông còn có tên là Nguyễn Tuấn Hòa. 13 tuổi ông đỗ H­ơng cử, 55 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuát thân, khoa bính thìn, niên hiệu Vĩnh Trị 1( 1676) đời Lê Hy Tông, làm quan đến chức Binh bộ hữu thị lang, t­ớc Nam, quản binh không đúng luật, bị truất, sau đ­ợc phục dụng làm đến chức tự Khanh, t­ớc tử. Làm quan quan đốc trấn Cao Bằng, đến Châu Lộc Bình của ng­ời Thanh dàn xếp việc biên giới, thăng Binh bộ hữu thị lang, nhập Bồi tụng, 75 tuổi về trí sĩ.

16. Đoàn Quang Dung (1681- 1741), ng­ười xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Sau đó sửa đổi tên thành Đoàn Bá Dung. Năm 30 tuổi ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thanh, khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh 6(1710) đời Lê Dụ Tông. Năm kỷ Dậu (1729) đ­ợc cử làm phó sứ sang nhà Thanh. Làm quan đến chức Lễ Bộ th­ợng th­, t­ớc Phụ quan công, mất tháng 6 năm Tân Dậu (1741) thọ 62 tuổi. Đ­ợc truy tặng hàm thiếu bảo, Đoàn Bá Dung cùng Nguyễn Huy Nhuận, Cao Huy Trạc,Trịnh Bá Tr­ơng đều là ng­ời xã Phú Thụy, Gia Lâm, Hà Nội, đều đõ tiến sỹ làm Th­ợng th­, đồng thời tham gia vào những chính sách lớn của Lê - Trịnh.

17.Đoàn Chú (1715- ... ) ng­ười xã Phủ Lỗ, Huyện Kim Anh, nay là xã Phủ Lỗ, Huyện Sóc Sơn, Hà Nộ. Năm 32 tuổi ông đỗ Đình Nguyên, Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Bính Dần, niên hiệu Cảnh H­ng 7 (1746) đời Lê Hiền Tông, làm quan đến chức Tả thị lang, t­ớc Hầu.

18. Đoàn Duy Tĩnh (1278 - 1783), ngư­ời xã Hải An, huyện Quỳnh Côi nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình , nguyên gốc thôn Đại Hạnh, huyện Văn Giang, H­ng Yên. Sau này ông Tĩnh đổi tên là Đoàn Nguyễn Thục để tránh phạm húy chúa Tĩnh Độ V­ơng Trịnh Sâm. Ông là danh thần đời Lê Hiển Tông, văn võ song toàn . 25 tuổi ông đỗ đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân, khoa Nhâm Thân, niện hiệu Cảnh H­ng 13 (1752), đời Lê Hiển Tông. Năm Nhâm Tý (1768) ông làm HIệu th­ đông các, kiêm chức Thiên đô sứ. Tính ông c­ơng trực, luôn giữ vứng khí tiết, đ­ợc sỹ phu trọng vọng. Chính ông dâng biểu hạch tội. D­ợng Trọng Khiêm, đ­ợc Chúa Trịnh Sâm khen th­ởng, cho 3 nén bạc.

ít lâu sau ông về quê chịu tang, nh­ung gặp lúc nu­ớc có nhiều biến loạn, ông lại dâng biểu xin là việc, đ­uợc triều đình chấp thuan cử ông thống lĩnh các đạo quân ở miền Thu­ợng Du.

Năm Tân Mão (1771) ông làm Chánh sử sang nhà Thanh dâng lễ cống, khi trở về đ­ợc thăng Phó độ ngữ sử, t­ợc Quỳnh Xuyên Bá.

Năm Giáp Ngọ (1774) , ông là đốc trán Nghệ An, vì bất đồng ý kiên với phụ tá là Thiệu quận công, ông dâng sớ xin về h­u . Năm sau (1775) ông mất, thọ 57 tuổi, đ­uợc truy tặng chức Đô ngự sử, thụy, là Cảnh Trực.

Khi đi sứ về ông có soạn bộ sách Đoàn Hoàng Giáp phụ sự tập, 2 quyển.

19. Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 - ... ) có sách chép Đoàn Văn Tuấn, con cụ Đoàn Nguyễn Thục ng­ười xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình. Hiệu là Hải Ông. Ông đỗ tiến sĩ Triều Lê Hiển Tông. Sau ra làm quan cho nhà Tây Sơn, đến chức Tả thị lang Bộ lại, t­ớc Hải Phái hầu. Sau chiến thắng Đông Đa của Nguyễn Huệ, ông đ­ợc cử đi sử nhà Thanh. ông là ng­ời văn ch­ơng nổi tiếng. Em gái ông là chính thất của Đại thi hào Nguyễn Du.

20.Đoàn Văn Bình (1824 - ... ), ng­ười Hạ Lang, Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế, nay là thôn Hạ Lang, xã Quảng Phú, Huyện Quảng Điền. Ông còn có tên Đoàn Văn Hội . Năm 25 tuổi ông đỗ Phỏ bảng ân khóa, khóa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức (1848), làm quan đến chức Hiệp biện đại học sĩ, Thải tử hiểu bảo, lĩnh Lại bị th­uợng thu­.

Tài liệu này trích trong cuốn "Các nhà khoa bảng Việt Nam" do NXB Văn hoc ấn hành năm 1993 - Ngô Đức Thọ chủ biên. Trong cuốn này không có Đoàn Nguyễn Tuấn.

Cử nhân nho học Họ Đoàn triều Nguyễn

1. Đoàn Xuân Sảng, ngư­ời xã Chân Nguyên, huyện Nam Chân, khoa thi năm Quý Dậu (1813) ở Tr­ờng Sơn nam, đỗ 14/28 ng­ời. Sau làm quan Đô đốc học.

2. Đoàn Trọng Quýnh, ngư­ời thôn Trung Hoà, huyện Bình D­ơng, thi khoa thi năm Quý Dậu (1813) tại Tr­ờng Gia Định, đỗ thứ 4/8 ng­ời.

3. Đoàn Bá Trinh, ng­ười xã Ôn Xá, huyện Văn Giang. Thi khoa năm Kỷ Mão, gia Long thứ 18 (1819_ tại tr­ờng Trực Lệ, đỗ thứ 2/17 ng­ời, làm quan t­ nghiệp.

4. Đoàn Thế Trạch, ng­ười xã Phủ Lỗ, huyện Kim Anh. Thi khoa thi năm Tân Tỵ, minh mạng thứ 2 (1621) tại tr­ờng Thăng Long, đỗ thứ 15/23 ng­ời.

5. Đoàn Khiêm Quang, ngư­ời thôn An Thành, huyện Bình D­ơng, đi thi khoa thi năm Tân tỵ, Minh mạng thứ 2 (1821) tại tr­ờng Gia Định, đỗ 7/16 ng­ời, làm quan tham tri Bộ Hình.

6. Đoàn Huy Tú, ng­ười xã Phư­ơng Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải D­ơng. đi thi khoa thi Mậu Tý, Minh Mạng thứ 9 (1829 ) tại tr­ờng Thanh Hoá, đỗ 6/11 ng­ời, sau ra làm tri huyện.

7. Đoàn Mậu (cha con cùng thi đậu), ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, Hư­ng Yên, thi khoa Mậu Tý, minh mạng thứ 9 (1828), tại trư­ờng thi Nam Định, đỗ 25/30 ng­ời, làm tri phủ, bị miễm nhiệm.

8. Đoàn Danh Du­ơng, ngư­ời xã Quang Thiềm, huyện La Sơn, Hà Tĩnh, thi khoa Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831) tại tr­ường Nghệ An, đỗ 11/18 ng­ời, có tiếng giỏi , đ­ược thăng án sát Vĩnh Long, bị bệnh về nghỉ.

9. Đoàn Trọng Huyên (cha con cùng thi đậu), ng­ười xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, thi khoa năm Tân Mão, minh mạng thứ 12 (1831) tại tr­ờng Nam Định, đỗ thứ 2/31 ng­ời. Làm quan đến chức Thị giảng học sĩ, đốc học Bắc Ninh. Ông là một trong những tác giả văn học của Thăng Long - Hà Nội thế kỷ 19- 20.

10. Đoàn Văn Hoán, ng­ười xã Nam Phố, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ông dự thi Quỹ Mão, Thiệu trị thứ 3 (1843) tại tr­ờng thừa Thiên, đỗ thứ 22/39 ng­ời. Làm quan tới chức Bố chánh.

11. Đoàn Công Nhẫm, ng­ười xã Vi Sơn, huyện thạch Thất, Hà Tây. Đi thi khoa Quý Mão, Thiệu trị thứ 3 (1848) tại tr­ờng Hà Nội, đỗ thứ 7/21 ng­ời.

12. Đoàn Văn Bình, ngư­ời xã Hạ Lang, huyện Quảng Điền. Ông là ng­ời đầu đỗ đầu kho thi Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846) tại tr­ờng Thừa Thiên có 46 ng­ời đỗ. Năm Mậu Thân (1848) ông đỗ phó bảng, sau làm hiệp tá đại học sĩ, th­ợng th­ bộ lại, Gia hàm Thái tử Thiếu bảo, sung cơ mật viện đại thần.

13. Đoàn Duy Trinh, ng­ười xã Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Đỗ thứ 34/46 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiên, khoa thi năm Bính Ngọ, Thiệu trị thứ 6 (1846). Làm Giáo thụ, cáo về.

14. Đoàn Khắc Nh­uợng (anh em họ với ông Trinh), ngư­ời xã Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn, đỗ thứ 40/46 ng­ời, tại trường Thừa Thiên, khoa thi năm Bính Ngọ, Thiệu trị thứ 6 (1846), làm tuần phủ Nam Ngãi, có tiếng liêm khiết.

15. Đoàn Duy Thục, ng­ười xã Mai Dịch, huyện Từ Liêm. Đỗ thứ 4/26 ng­ời tại tr­ờng Hà Nội, khoa thi năm Đinh Mùi (1849) Thiuêụ Trị thứ 7. Sau đ­ợc bổ làm tri huyện.

16. Đoàn Hy, ng­ười xã Vân Chàng, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định. Đỗ thủ khoa tai tr­ờng Nam Định. Lấy đỗ 27 ng­ời khoa thi năm mậu Thân, Tự Đức thứ 1 (1848). Đ­ợc bổ chức Giáo thụ.

17. Đoàn Đức Mậu, ngư­ời xã Đông Công, huyện H­ơng Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Đỗ thứ 20/24 ng­ời tại tr­ờng Nghệ An, khoa thi Canh Tuất, Tự Đức thứ 3 (1850).

18. Đoàn Kim Dao (sau đổi là Đoàn Dao), ng­ười xã ­u Đàm, huyện Phong Điền. Cha là Đoàn C­ cũng đỗ cử nhân. Ông đỗ thứ 20/22 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiên, khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852). Đ­ợc bổ làm án sát, sau bị cách chức, đ­ợc phục dụng rồi thăng Bố Chánh Quảng Ngãi.

19. Đoàn Thuật, ng­ười xã Vân Chàng, huyện Nam Chân, Nam Định. Đỗ thứ 6/20 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852).

20. Đoàn Ngọc ái, ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên, đỗ thứ 10/20 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Mậu Tý, Tự Đức thứ 5 (1852).

21. Đoàn Văn Diệu, ngư­ời xã Cửu An, huyện Đồng Xuân, Phú Yên, đỗ thứ 9/10 ng­ời tại tr­ờng Bình Định, khoa thi năm ất Mão, Tự Đức thứ 8 (1855).

22. Đoàn Tảo, ngư­ời xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên (em Đoàn Ngọc ái), đỗ thứ 22/22 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Mậu Ngọ, tự Đức thứ 11 (1858). Đ­ợc bổ làm Tri phủ Lâm Thao. Sau bị cách chức.

23. Đoàn Tấn Thiện, thôn Mỹ Đông Hiếu, tỉnh Kiến Đăng, đỗ thứ 3/9 ng­ời tại tr­ờng Gia Định, khoa thi năm Mậu Ngọ, tự Đức thứ 11 (1858)

24. Đoàn Đảng, ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ưng Yên, đỗ thứ 21/22 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ 21 (1868).

25. Đoàn Như­ Bích, ng­ười xã Đậu Kinh, huyện Đăng S­ơng, Quảng Trị, đỗ thứ 11/29 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiện, thi năm Canh Ngọ, tự Đức thứ 23 (1870). Đ­ợc bổ làm Giám sát ngự sử nội vụ.

26. Đoàn B­ưu, ng­ười xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, khoa thi năm Canh Ngọ, Tự Đức thứ 23 (1870). Đ­ợc bổ làm Tri phủ.

27. Đoàn Đình Tiến, ng­ười xã Thi Liệu tỉnh Nam Định, đỗ thứ 25/25 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Giáp Tuất, tự Đức thứ 27 (1874).

28. Đoàn Văn Anh, sau đổi là Đoàn Văn Ph­ương, ng­ười xã Đông Thanh, tỉnh Nam Định, thi đỗ thứ 6/21 ng­ời, tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Bính Tý, tự Đức thứ 29 (1876). Đ­ợc bổ làm tri phủ Xuân Tr­ờng, sau xin nghỉ.

29. Đoàn Hữu Thuật, ng­ười xã Thái Bình, tỉnh Nam Định, thi đỗ thứ 16/21 ng­ời tại tr­ờng Nam Định, khoa thi năm Bính Tý, tự Đức thứ 29 (1876).

30. Đoàn Diệu, ngư­ời xã Ngọc Thạnh, huyện Tuy Ph­ớc, Quảng Nam đỗ thứ 7/12 ng­ời, tại tr­ờng thi Bình Định, khoa thi năm Bính tý, tự Đức thứ 29 (1876).

31. Đoàn C­ư, sau đổi là Đoàn Lang, ngư­ời xã ­u Đàm, huyện Phong Điền, Thừa Thiên (con Đoàn Kim Dao), đỗ thứ 28/32 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiên, khoa thi năm Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878). Đ­ợc bổ làm án Sát Quảng Nam.

32. Đoàn Điển, ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên thi đỗ thứ 15/24 ng­ời tại tr­ờng Nam Định khoa thi năm Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878). Đ­ợc bổ làm Tri phủ Quỳnh L­u.

33. Đoàn Văn Th­uớc, ng­ười xã ­u Đàm, huyện phong Điền, Thừa Thiên, đỗ thứ 29/31 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiên, khoa thi năm Giáp Thân, Kiến Phúc thứ nhất (1884). Đ­ợc bổ làm tri huyện.

34. Đoàn Triển , ng­ười xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội (con cụ Đoàn Trọng Huyên), thi đỗ thứ 22/47 ng­ời tại tr­ờng thi Hà Nam - Ninh bình, khoa thi năm ất Dậu, hàm nghi thứ nhất (1885). Đ­ợc bổ làm Viên ngoại Nha kinh l­ợc, Trần Phủ Ninh Bình, tổng đốc Nam Định. Khi làm tuần phủ Ninh Bình có làm tờ trình lên triều đình về việc chỉnh đốn công tác giáo dục, soạn thảo sách giáo khoa và quy chế thi cử, có nhiều ý t­ởng tiến bộ.

35. Đoàn Thụy Liên, ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên thi đỗ tứ 12/56 ng­ời tại Hà Nam, khoa thi năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2 (1887).

36. Đoàn Tấn, ng­ười xã Xối Th­ợng, tỉnh Nam Định, đỗ thứ 20/56 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi Năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2 (1887).

37. Đoàn Tùy, ng­ười xã Phú Môn, huyện Phú Vang, Thừa Thiên, khoa thi Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891).

38. Đoàn Khởi, ng­ười xã Ngọc Sa, tỉnh Quảng Nam, thi đỗ thứ 23/27 ng­ời tại Thừa Thiên, khoa thi Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891).

39. Đoàn Văn San, ng­ười xã Đức Nhuận, huyện Thanh Ch­ơng, tỉnh Nghệ An, khoa thi năm Tân Mão, Thành Thái Thứ 3 (1891).

40. Đoàn Thúc Vĩ, ấm Sinh, ng­ười huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, đỗ thứ 14/19 ng­ời (năm 27 tuổi) tại tr­ờng Bình Định, khoa thi Năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894).

41. Đoàn Thụy Giáp, ngư­ời xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên. Năm 35 tuổi thi đỗ thứ 12/60 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi Năm Giáp Ngọ Thành Thái thứ 6 (1894). Con cụ Đoàn Mậu.

42. Đoàn Văn Huy, ng­ười xã Mai Dịch, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 37 tuổi thi đỗ thứ 16/60 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6 (1894).

43. Đoàn Tử Quang, quê xã Phụng Công, huyện H­ương Sơn, Hà Tĩnh (nay xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ), 82 tuổi thi đỗ thứ 29/30 ng­ời tại tr­ờng Nghệ An, khoa thi năm Canh Tý, thành Thái thứ 12 (1900), đ­ợc coi là sự kiện hiếm có trong lịch sử thi c­ Việt Nam. Đ­ợc bổ chức Huấn đạo huyện H­ơng Sơn.

44. Đoàn Tố, ng­ười xã Mỹ Đức, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định, thi đỗ thứ 12/18 ng­ời tại tr­ờng Bình Định, khoa thi năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903).

45. Đoàn Ng­ưng, ng­ười xã Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, 38 tuổi thi đỗ thứ 6/60 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

46. Đoàn Như­ Ch­ương, ng­ười xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ng Yên, 28 tuổi thi đỗ thứ 24/50 ng­ời tại tr­ờng Hà Nội, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

47. Đoàn Vỹ, ng­ười Hữu Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội (con cháu cụ Đoàn Triển), 26 tuổi đỗ thứ 35/50 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi năm Bính Ngọ, Thành Thái thứ 18 (1906).

48. Đoàn Quân, ngư­ời xã Đô Quan, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, 21 tuổi đỗ thứ 27/30 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi năm Nhâm Tý. Duy Tân thứ 6 (1912).

49. Đoàn Đạm, ng­ười xã Liễu Đôi, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, 25 tuổi đỗ thứ 29/30 ng­ời tại tr­ờng Hà Nam, khoa thi năm Nhâm Tý. Duy Tân thứ 6 (1912).

50. Đoàn Đình Chi, ng­ười xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải D­ơng. 24 tuổi đỗ thứ 24/32 ng­ời tại tr­ờng Thừa Thiên, khoa thi năm ất Mão, Duy Tân thứ 9 (1915). Đ­ợc bổ làm tri huyện Bình Khê. Cha con ông Chi là Đoàn Đình Duyệt, th­ợng th­ Bộ công, hiệp tá đại học sĩ Ninh lãng nam, em là Đoàn Đình Ph­ơng, cử nhân khoa mậu Ngọ (1918).

51. Đoàn Thăng, ngư­ời xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ưng Yên, 24 tuổi thi đỗ thứ 21/40 ng­ời tại tr­ường Hà Nội - Nam Ninh thi chung, khoa thi năm ất Mão, Duy Tân thứ 9 (1915).

52. Đoàn Đình Phư­ơng, ngư­ời xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải D­ương, 29 tuổi thi đỗ thứ 9/29 ng­ười tại trư­ờng Thừa Thiên, khoa thi năm Mậu Ngọ. Khải Định thứ 3 (1918). Ông là em ruột của Đoàn Đình Chi.

Tài liệu trên đây là trích lục trong quyển " Quốc triều H­ơng khoa lục" của cử nhân nho học Cao Xuân Dục. Đ­ợc dịch ra Quốc Ngữ - NXB thành phố Hồ Chí Minh ấn hành 1993, có bổ sung về vài điểm về công việc và chức t­ớc của một số vị tham khảo trong sách " Các nhà khoa bảng Việt Nam" của Ngô Đức Thọ - NXB văn học 1993 và "Sách sứ thần Việt Nam" NXB văn hóa thông tin năm 1996.....

53. Đoàn Văn Phư­ơng, ng­ười xã Vĩ Bạc, huyện Quảng Xư­ơng, Thanh Hóa. Đi thi khoa Mậu Tý, minh mạng thứ 9 (1828) tại tr­ờng Thanh Hóa, đỗ thứ 6/11 ng­ời. Sau ra làm tri huyện.

54. Đoàn Danh Chấn, ngư­ời xã Hải Yến, huyện Tiên Lữ, tỉnh H­ưng Yên, thi đỗ thứ 29/56 ng­ười tại trư­ờng Hà Nam, khoa thi năm Đinh Hợi , Đồng Khánh thứ 2 (1887).